NHẠC SĨ TRÌNH CÔNG SƠN , MỘT
Tác giả: Ngoc Giao DO

( viết đề tưởng niệm 17 năm , ngày mất của nhạc sĩ TCS ) Đỗ Ngọc Giao -Paris -



Các Anh chị và các bạn thân mến !

Thấm thoát mà nhạc sĩ tài hoa TCS đã già từ quán trọ trần gian này đuoc 17 năm ( 01/04/2001 ) , hôm nay , nhân dịp giỗ 17 năm của ông ,tôi xin gửi đến các anh chỉ và các bạn một vài cảm nghĩ của tôi về nhạc sĩ TCS , đây chỉ là ý kiến cá nhân của tôi sau khi đã được đọc qua một số tài liệu,lịch sử báo chí , nhung bài văn,bài báo,viết về ông ,những hồi ký của các bạn bè thân , người quen biết ông từ xưa đến nay cũng như hồi ký của chính ông ... khen hay chê , đúng hay sai đó là cảm nhân của các anh chị và các bạn , tôi không có đủ tư cách gì để phê phán, ngợi khen lên án , ném đá hay bênh vực ông , chuyện ấy xin để các nhà phê bình , các bình luận gia văn học sử các sử gia làm việc ấy , tôi chỉ là một trong những người thích dòng nhạc Trịnh , bởi vì nó có tính nhân bản , rất con người ,những bài hat nói lên thân phận con người trong cuộc chiến , sự bạo tàn của chiến tranh ,những ca từ mang tính triết lý nhân sinh và bàng bạc cái đạo lý sắc sắc không không vô thường của đạo Phật ,và tôi cũng yêu thích những bản tình khúc lãng mạn nói ,về tình yêu đội lứa ,,tình yêu quê hương đất nước , tình yêu con người và cuộc sống của nhạc sĩ TCS , từ thời tôi còn là SV HS hơn 40 năm về trước , hôm nay nhận ngày giỗ của ông , xin gửi đến các anh chi và các bạn những cảm nhân của tôi,về ông,,những gì tôi nghĩ về nhạc sĩ TCS đã lâu ,nhưng chưa có dịp để viết và cũng , xin mượn những dong chữ này để thay một nên hương lòng , thắp lên để tưởng niệm đến ông , một người hát rong của thế kỷ , một nhân tài " nhiều khố luy " sinh bất phùng thời , và cũng là người đi giữa hai lằn đạn trong cuộc chiến Quốc -Công vừa qua , một người đã gây tranh cãi nhiều nhất kể từ lúc còn sống khi đã chết , trong quá khứ và cho mãi đến ngày hôm nay .

các bạn thân mến !

từ xưa cho đến nay , có thể nói , trong lịch sử âm nhạc VN cân đại , TCS là một NS được nhắc nhở nhiều , và cũng là để tài tranh luận sôi nổi làm tổn bút mực nhiều nhất , người mến mộ ông cũng nhiều mà người ghét ông cùng lắm , TCS là một " nhân tài khổ luy " đã trót " sinh bất phùng thời " trong một xứ sở tang thương của cuộc nội chiến tương tàn cốt nhục Bắc -Nam , ông sinh ra như một chứng nhân lịch sử , chứng kiến những sự đổ vỡ tang thương của dân tộc, đất nước , ông đau lòng khi thấy đất nước cả hai miền Nam Bắc bị tàn phá bởi bom đạn , gia tài của Mẹ VN là một núi đẩy mồ và một lũ bội tình mang chủ nghĩa CS ngoại lại , gieo rắc những tang thương cho dân tộc , sự khổ đau chết chóc của dân tộc giữa hai miền đất nước trong một cuộc chiến tranh ý thức hệ , người Việt giết người Việt bằng súng đạn của ngoại bang ( Nga ,Mỹ ,Tàu ) , ông oán hận chiến tranh và chống lại nó , tự đó ông đã phản kháng bằng những dòng nhạc phản chiến ra đời , những ca khúc da vàng ra đời thay thế cho những tình khúc lãng mạn bất hủ của ông trước đó , những bài hát nói lên thân phận của con người trong cuộc chiến , những niềm hy vọng , ước nguyện một nền hoà bình , ông mong một ngày đất nước hòa bình hết chiến tranh , người VN cả hai miền đất nước , cùng bắt tay , quên đi thu hận để cùng chung xây đất nước , cho một nước VN cường thịnh dân chủ , góp mặt trên thế giới ,nếu bảo TCS là CS , thì e cũng không đúng , vì những lời của các bài hát trong tập "ca khuc da vàng " nhu bài " hat cho những xác người ", không ai hát lên mà không thấy rõ , đó những mồ chôn tập thể các đồng bào vô tội vạ xác các cán binh CS , sinh bắc tử nam nằm la liệt trên các đường phố của ,thành nội, trong biển cố mậu thân ở Huế , bài hát " cho một người nằm xuống ", ông làm để tưởng nhớ một người bạn của ông ,cố chuẩn tướng Không quân , QLVNCH , Lưu Kim Cương , đã tử trận trong trận chiến tết Mậu thân ở vùng ven biên , ngoại ô SG , bài hát " Một buổi sáng muà xuân ", hay phiên khúc " ngụ ngôn mùa Đông " nói về những sự chết chóc của một em bé ra đồng đạp phải trái mìn nổ chậm gài ngoài đồng , hay một chiếc xe tang nổ tung vì bị cán phải min , làm tan nát chiếc hòm dựng nguoi , và và người đã chết rồi , lại chết thêm một lần nữa với thịt da nát tan ( trái mìn nổ chậm ,người chết hai lần thịt da nat tan ), và bài " nguoi con gai VN " nói lên một cái chết thật " phi lý " cua một người con gái VN vô tội bị đạn lạc giữa hai bên trong cuộc giao tranh ,, thử hỏi ở đây AI là nguoi đặt mìn ?, gài mìn ?, ai là người gây ra cảnh chết chóc chiến tranh ?,ai pháo kích vào trường tiểu học Cai lậy ( DT ) , giết hại các em bé học sinh vô tội ai tạo ra những mồ chôn tập thể ở Huế trong tết Mậu thân 68 , ai gây ra chiến tranh ,giết hại một em bé ngây thơ , một thiếu nữ xuân thì vô tội ….điều đó những ai đã sống trong cuộc nội chiến vừa qua đều đã rõ ?? , chính những bài hát phản chiến ấy , đã đưa ông phải di học tập cải tạo tự tưởng , đi lao động sản xuất , một hình thức cải tạo cho giới tiểu tư sản văn nghệ sĩ ,sau GP , nhưng cũng vì quá lý tưởng , tin vào su thành thật , xoá bỏ hận thù của người anh em CS , và cũng vì tình yêu quê huong , đất nước ông đã chọn ở lại và định mệnh đã xô đẩy ông vào giờ thứ 25 của cuộc chiến ông đã đứng ra kêu gọi mọi người ở lại để " nối vòng tay lớn " với người anh em CS , dựng xây đất nước và vô tình trở thành một công cụ tuyên truyền của phe thắng cuộc và ông trở thành kẻ thù, kẻ phản bội ,Kẻ tôi đổ , phản quốc của phe thua cuoc , và bị lên án,là CS nàm vùng , bi ném dà, nguyền rủa, và sau khi chiếm được miền nam một thời gian ngắn bộ mặt thật của CS đã rơi xuống ,và phe thắng cuộc đã thẳng tay trả thù dàn ap , luà vào trại cải tạo tất cả những người miền nam thua cuộc những nguy quân , ngụy quyền của chế độ cũ ,và cả các giới văn nghệ si , tiểu tư sản trí thức , cũng bị bắt đi học tập cải tạo , lao động sản xuất ở các nông trường , trong đó có cả ông , một người trước đó đã đuoc tuyên dương là giác ngộ ,có tinh thần cách mạng , CS nằm vùng , và bền thắng cuộc đã công khai ăn cướp tài sản của nhân dân miền nam bằng những cuộc kiếm kẻ cải tạo tư sản mại bản , đổi tiền , bắt bớ và giam cầm những người yêu nước , chống lại ho , thiêu hủy những tác phẩm , sách báo , thợ , nhạc của các văn nghệ sĩ miền nam , bị coi là đối truy phản đông , tàn dư của Mỹ Ngụy , giống như bọn vệ binh đỏ đã làm ở trung quốc trong cuộc cách mạng văn hóa thập niên 60,,trở trêu thay , những tác phẩm ,nhạc vàng đối truy ấy ,ngày nay đang được dân chúng đón nhận và phổ biến rộng rãi trên các tụ điểm ca nhạc , trên đài truyền hình VTV của nhà nước , cùng một lúc ,phát động chiến tranh biện giới với nước láng giềng kampuchia , để gây ảnh hưởng và cuối cùng là được nước đàn anh Trungquốc mang quân xâm lăng, các tỉnh biên giới phía bắc để dạy cho người đàn em phản bội ,một bài học xương máu vào năm 78 chính sách trả thù , kỳ thi người hoa đã , gây ra một làn song vượt biên, vượt biển bỏ nước ra đi vào thập niên 80 , làm thức tĩnh nhân loại và thế giới , từ đó nếu như không có cuoc CM vung lên lật đổ chế đô độc tài CS của dân chúng ở các nước Đông âu ( Nga , tiệp khắc , ba lan , hung gia lợi , bảo gia lợi và cuối cùng là Đông đức sụp đỗ với sự phá bỏ bức tường ô nhục Berlin ,vào muà thu thập niên 90 , đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa CS ở tây âu ,trước lý do sống còn , run sợ làn sóng nỗi dậy giải thể , đảng CS Việt nam đã phải thay đổi đường lối cái trị , chính sách cởi trói kinh tế , glasnost ,bãi bỏ chế độ bao cấp, chấp nhận kinh tế thị trường , cởi trói chính trị bằng giải pháp phóng thích một số các tù nhân cải tao và một số các văn nghệ sĩ được phóng thích , và , nhớ đó ông mới được trở về và để xoa dịu lòng dân , chính sách cởi trói văn nghệ cũng đã được ban hành ,, và một số các tác phẩm , bản nhạc của các văn sĩ , nhạc sĩ miển nam mới được sở VH thông tin cho phép phổ biến và .bên thắng cuộc đã cho phục hồi lại những bản nhạc của ông một thời , những chủ yếu vẫn là những bản nhạc phản chiến có lợi cho họ , họ cố tình lờ đi những bản nhạc , nói về tôi ác , chiến tranh bất lợi cho ho , mãi đến gần mười năm sau , những tình khúc của ông và một số nhạc vàng của các NS miền nam mới được rải rác trinh bày và nhạc TCS đã trở thành một hiện tượng trong nước , trong giới trẻ , SVHS ,,các ca sĩ nổi tiếng của cả trong nước lẫn hải ngoại thay phiên hát những bản nhạc của ông ,một số các nhà phát hành băng nhac , CD VCD DVD ở trong và ngoài nước đã thành công , phát đạt nhờ sản xuất về những album ,CD, DVD về nhac TCS , và không phủ nhận ,ngoài ca si Khánh Ly, người nổi tiếng hát nhac cua TCS , đã thành danh truoc nam 75 ,còn có những ca sĩ không tên tuổi , trước đó ở cả trong nước và hải ngoại ,đã nhờ hát nhạc của ông mà phất lên như diều gặp gió , trở thành triệu phủ có được một cuộc sống vật chất huy hoàng như Hồng Nhung, Mỹ Linh , Mỹ Tâm ,Trần thu Hà , Quang Dũng ,Tùng Sơn , etc , ngoài những nhạc phẩm phản chiến , nói lên thân phận con người , bên cạnh đó , TCS còn là một nhân tài âm nhạc về những tình khúc để đời , những tình khúc với ca từ thật lãng mạn ,tình tự , mà bất cứ những người yêu nhau, đều thuộc nằm lòng một bài hát ,một câu hát của ông, những tình khúc của ông đã được cả giới trẻ và lứa tuổi trung niên , đón nhận và ưa thích , hầu như trong giới SVHS không ai là không thuộc hoặc biết qua một vài tình khúc của ông ...; với tôi ,TCS là một người hát rong , ông đến với cuộc đời để ca tụng tình yêu , tình đất nước , những tình khúc bất hủ của ông như diễm xưa , hạ trắng , ướt mi cát bụi tuổi đá buồn , như cánh vac bay , một cõi đi về đã trở thành bất tử ( immortel ) được dịch ra bằng lời Nhật, lời Anh , lời đại hàn , lời Hoa và đã được các ca sĩ ngoại quốc ( Nhật , Mỹ , anh ,Pháp , Đại Hàn , Hoa ), trình bày trong các đại hội ( festival ) về âm nhạc quốc tế , dòng nhạc tình của ông đã chấp cánh thăng hoa , vượt khỏi biên giới nước vN nhỏ bé để lan rộng tới các QG trên thế giới , người ngoại quốc tò mò tìm hiểu về ông , về các nhạc phẩm của ông và một nữ sinh viên người Nhật đã làm một luận án tiến sĩ ra trường của cô về âm nhạc TCS ,và cô đã được giải thưởng danh dự về luận án này ....Ngoài tài năng về âm nhạc, TCS còn là một họa sĩ vẽ những bức tranh rất đẹp , mặc dù ông không có học qua một lớp vẽ nào , đa số những bức tranh của ông vẽ các thiếu nữ với mái tóc mềm buông xõa đôi bờ vai gầy ,guộc nhỏ , thật thanh thoát như lời bài hát "như cánh vạc bay " của ông , " vai em gầy guộc nhỏ , như cánh vạc về chốn xa xôi " , đặc biệt ông không bao giờ bán tranh vẽ của mình , dù nhiều nhà sưu tập ngoại quốc , muốn mua tranh vẽ của ông , phần lớn ,những tranh vẽ của ông , được in trên bìa những album nhạc của ông như..( bên đời hiu quạnh , khói trời mênh mông , tự tình khúc ..) , chính những tài năng thiên phú ấy , mà ông là một trong số những người hiếm hoi được kể tên trong tự điển các nhân tài của thế giới ( WHO ) ,
,.chỉ tiếc rằng , nếu ông được sinh ra trong một đất nước tự do văn mình Âu Mỹ tiến bộ , có lẽ ông đã được trở thành triệu phú , giàu có vì bán những tác phẩm , tác quyền về nhạc của ông , được thành vĩ nhân , được dựng tượng đài , nhưng bất hạnh thay, ông đã sinh ra trong một xứ sở tang thương bom đạn và số mệnh nổi trôi của vận nước đã đưa ông trở thành người đi giữa hai lằn đạn để rồi hứng chịu những oan khiên của sổ mênh , của đất nuớc , một sự tình cờ , trong một lần về thăm nhà , tôi đã gặp được ông và ngồi nói chuyện với ông ,, ông rất vui khi tôi cho biết , đã từng được nghe ông và KL hát trong quán Văn ở DHVK ngày xua , tôi được ông mới một ly rượu CHIVAS và chụp ảnh chung với ông và em gái ông ( TVT ) , kỷ niệm làm tôi cảm động và sẽ nhớ mãi suốt đời , khi được ông tthân chinh lên hát tặng tôi một bài hat nổi tiếng của ông ( một cõi đi về ) , theo lời yêu cầu của tôi (, xin xem anh gửi kèm ) mặc dù đêm hôm ấy , không phải là chương trình nhạc của ông , ông đã phải đợi đến gần cuối giờ , để xin phep ban tổ chức lên hát tặng tôi bài hát của ông ,cốt để làm theo lời yêu cầu của tôi, một việt kiều xa xứ về thăm quê hương và, chỉ mới gặp gỡ ông lần đầu tiên , hành động này của ông đã gây cho tôi một ấn tượng đầu tiên về sự tử tế , tính khiêm nhường của ông , một người nổi tiếng và tài năng , cảm giác đầu tiên , tôi nhận thấy ở ông là sự chân thật , cởi mở , tử tế bỉnh dân và khiêm nhường qua cách nói chuyện thân tình , ông xưng " mình " với tôi để biểu lộ sự cởi mở thân tình , không lên mặt đàn anh kể cả ,mặc dù ông là người rất nổi tiếng và giữa tôi và ông chưa hề biết nhau bao giờ và chỉ mới gặp nhau lần đầu mặc dù về phần tuổi tác, tôi chỉ là hàng em út của ông và ông là một nhân tài về âm nhạc , nếu ai đã từng tiếp xúc với ông lần đầu , sẽ thấy rõ điều đó , đó là sự tử tế, ,đức tính khả ái , khiêm nhường ,đây là một điều thật hiếm quý , rất khó tìm thấy ở những người có tài năng ,nổi tiếng mà tôi không ít thì nhiều đã có dịp tiếp xúc trong cuộc đời ,.., ca sĩ KL, một người đồng hành với ông ngày xưa ,đã tâm sự trong hồi ký của bà nhờ TCS mà bà đã " thành Danh " và nhất là " thành Nhân " và bà lúc nào cũng nhớ lời của ông " phải sống giữa đời với một " tấm lòng " và sống với mọi người bằng sự tử tế " giống như một ca từ trong bài hát " để gió cuốn đi " của ông ,nhắn nhủ với mọi người hãy sống và đối xử với nhau bằng sự tử tế , bằng tấm lòng , bởi vì " sống trong đời sống , cần có một tấm lòng " ,đó là lòng chân thật , tự tế , lòng bác ái, vì tha ... , điều này tôi đã thấy khi được giao tiếp với ông và sự tử tế của ông đã thể hiện trong hành động việc làm của ông đối với tôi đêm năm xưa .. , hôm nay ngồi viết những dòng này để tưởng niệm 17 năm ngày ông mất , tôi chợt nghĩ , giá như ông còn sống ngày hôm nay , có lẽ tâm hồn của ông sẽ vừa vui và vừa buồn lẫn lộn , vui là khi thấy , những bản nhạc vàng , những bản nhạc về tình yêu lãng mạn của các NS nổi tiếng miền nam trong đó có ông , trước đây bị lên án , chỉ trích là ủy mị , đồi trụy thi này được hát công khai mọi nơi mọi chỗ , và các ca sĩ nổi tiếng ngày xưa bỏ nước ra đi bị lên án là chạy theo để quốc , phản động , trong do co ca nguoi ban dong hành voi ong ngày xua thì nay đã được nhà nước ưu ái gọi là " khuc ruot ngàn dam " và đã trở về bằng thảm đỏ huy hoàng , hát những nhạc phẩm của ông , những bản nhạc vàng ngày xưa của các nhạc sĩ miền nam , một thời bị cấm đoán ,ngày tại nhà hát thành phố , hội trường thủ đô Hà nội , ngoài ra còn có một nam ca sĩ nổi tiếng ở hải ngoại còn được ...chễm chệ " ngồi ghế giám khảo cuộc thi hát ,nhạc vàng tuyển lựa tài năng mới , và nhạc của ông ,được trình bày ở mọi nơi mọi chỗ , và nhiểu ca si đã phất lên như diều gặp gió nhờ hát nhạc của ông , nhưng bên cạnh nỗi vui ấy , có lẽ ông cũng sẽ buồn đau lòng và thất vọng cùng cực , khi nhìn thấy , đất nước mà ông yêu quý, kêu gọi mọi người ở lại , để " nổi vòng tay lớn " , dựng xây hắn gắn những vết thương của chiến tranh ,một đất nước mà, ông hy vọng sau khi hết chiến tranh , sẽ thành một đất nước tự đó dân chủ thinh cường về kinh tế , dân chúng ấm no hạnh phúc thì ngược lại ngày hôm nay đã và đang trở thành một đất nước tang thương bị phá sản đến tận gốc rễ , đầy rẫy những sự bất công , người bóc lột người , dân tỉnh thì lầm than , quan quyền thì tham ô , giàu có , nền văn hóa suy đồi ,xã hội thác loạn , trộm cướp , kinh tế kiệt quệ , đất đai của ông cha bị bán đứng chọ ngoại bang , biển quê hương nhiễm độc , không còn tôm cá , rừng bị phá , tài nguyên đất nước kiệt quệ , môi trường sinh thái bị ô nhiễm và ..đất nước bị cầm quyền bởi một nhóm người đọc tài tham ô , bất công , thối nát , và tôi nghĩ với lòng yêu đất nước , ông sẽ lại tiếp tục phản kháng bằng những ca khúc tranh đấu , chống lại bất công , thối nát như một số các văn nghệ sĩ, trị thực , những tù nhân lương tâm , những thế hệ trẻ yêu nước đang ở trong nước, ngày hôm nay , đã và đang làm để thực tình mọi người trong và ngoài nước đứng lên lật do một chế độ độc tài , độc tôn , tham ô , bán nước cho ngoại bang .Theo thiển ý của tôi , TCS không là của riêng ai ,phe phái nào mà ông là của tất cả mọi người, ông yêu quê hương dân tộc ,việc ông lựa chọn ở lại và chết trên quê hương là quyền tự do tự tưởng của ông ,bởi vì ông là một nghệ sĩ sáng tác nhạc mà quê hương là nguồn cảm hứng cho người nghệ sĩ sáng tạo ra những áng văn chương , dòng nhạc, lời thơ , khi xa quê hương , , người nghệ sĩ sẽ bị cạn nguồn cảm hứng và sẽ không còn sáng tác có hồn được nữa vì đã mất đi cái tình tự dân tộc , điều này đã thôi thúc cho nhạc sĩ nổi tiếng Phạm Duy khi khi ông lựa chọn quyết định trở về để sống và chết trên quê hương , sau nhiều năm sống lưu lạc xứ người , mặc dù sự trở về của ông bị mọi người ở cả hai phe lên án và đả kích , và ngày hôm nay , một số các ca sĩ , nhạc sĩ ở hải ngoại đã lên đường trở về để xin nhận nơi này làm quê hương , sau bao nhiêu năm sống ở hải ngoại ,

Các bạn thân mến , trong phạm vi hạn hẹp của bài viết này , tôi không có thì giờ để phân tích những ca từ về dòng nhạc Trịnh , vì muốn phân tích , phê bình , phải có thị giờ để tìm hiểu cặn kẽ ,vả lại tôi không phải là một nhà phê bình về âm nhạc , về ngôn ngữ học , mà tôi chỉ là một người thích và yêu nhạc của TCS , như bao người khác , vì những bài hát nói lên tính người , tình nhân bản , tình yêu , và những ca từ phù thuỷ của ông về triết lý , về nhân sinh , về cuộc sống , về cõi đời , về thân phận con người , bằng bạc cái triết lý sắc sắc không không của đạo Phật ,, mà tôi cảm nhận được khi hát , nghe những tác phẩm của ông , nói tóm lại , để trả lời câu hỏi , tại sao nhạc của ông được mọi người từ trẻ đến già đều thích ,, được người ngoài quốc tìm hiểu và hát , được phổ biến rộng rãi trong và ngoài nước và đã được dịch ra các ngoại ngữ thông dụng trên thế giới , và được trình bày bởi các cá sĩ ngoại quốc tại các đại hội âm nhạc quốc tế ..., xin mời các bạn xem bài nhận xét phần tích " Những kết hợp bất thường trong ca từ nhạc Trịnh Công Sơn dưới góc độ ngữ pháp " ,của GS tiến sĩ ngôn ngữ học Trần Kim Phượng , việt trong tạp chí ngôn ngữ học VN , mà tôi tìm được trên net , gửi kèm theo đây ... í , , , , , ,.

. Hôm nay là ngày giỗ của ông , xin đuoc thắp một nén hương lòng để tưởng niệm ông ,một thiên tài của nền âm nhạc VN , một chứng nhận lịch sử của cuộc chiến quốc -công vừa qua , mong rằng ở bên kia cõi vĩnh hằng, nơi không có những ý thức hệ , phe phái, sự ganh ghét ,nhỏ nhen , sự thù hận độc ác giữa người và người , nơi ấy chỉ có họà bình vĩnh cửu với tình yêu ,tình người ,tình nhân bản , ông sẽ đời đời an nghỉ thảnh thơi và ông sẽ tiếp tục ôm đàn làm người nghệ sĩ du ca hát rong của thế kỷ ,sáng tác những dòng nhạc ca tụng về tình tự dân tộc , tình yêu quê hương , tình yêu đôi lứa ,tình người và tình nhân loại

Tôi nhớ có đọc ở đâu đó trên internet , một tác giả nào đó đã viết về ông rất hay và thấm thía , sau khi ông mất , xin trích ra đây để các bạn cùng đọc và cùng để chăm dứt bài viết của tôi về nhạc sĩ TCS , nhân dịp kỷ niệm 17 năm , ngày mất của ông ... " Sau cái chết của ông, ta có chút hụt hẫng. Không hụt hẫng sao được. Lâu nay vẫn có ông bên cạnh mà ta không để ý, đến lúc ông bỗng nhiên bỏ đi ta mới ngơ ngác. Ta đã cùng đi với ông một đoạn đường dài, đã lỡ theo chân ông tới đây. Rồi bỗng nhiên ông đột ngột chia tay, “bỏ mặc con đường”. Trước đây, ta cảm thấy có ông đứng cạnh ta, mỉm cười nói: “Hãy cứ vui chơi cuộc đời...”. Còn bây giờ, ta thấy ông như đứng phía trước ta, đứng giữa con đường, và ông khẽ quay lại, khẽ mỉm cười, lắc lắc đầu nói: “Thôi về đi, đường trần đâu có gì...”. Rồi ông biến mất, trong lúc ta còn đứng giữa con đường. Biết làm sao bây giờ? Chắc là phải quay về thôi, phải đành nghe theo lời ông vậy. “Đường trần đâu có gì,” ông nói vậy. Nhưng biết làm sao quay về. Ông “đi bỏ lại con đường, bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi...”

- Từ khi ông mất, ta nghe cái chết có vẻ như nhẹ nhàng hơn, biên giới giữa sống và chết có vẻ như cận kề hơn, và ta nghe nhạc của ông dường như cũng “thấm” hơn.

..Xin Vĩnh biet ông , người đi giữa hai lằn đạn, và một " nhân tài nhiều khổ lụy " sinh bất phùng thời , Nhạc si TCS …

Đỗ Ngọc Giao - ( viết đề tưởng niệm 17 năm ngày mất của nhạc sĩ TCS ) -Paris le 01 /04/2018 )

PS : sau đây là bài viết của GS tiến sĩ Trần Kim Phượng , nhân xét và phân tích , những kết hợp bất thường trong ca từ nhạc TCS dưới góc độ Ngữ pháp và một vài hình ảnh của tôi , chụp chung với nhạc sĩ TCS , với cô em gái của ông và các bạn , trong chuyến về thăm nhà năm xưa ,và ảnh chụp nhạc sĩ TCS , đang lên sân khấu để hát tặng tôi và các bằng hữu của ông , bản nhạc ( MCDV) , theo lời yêu cầu của tôi , xin mời các bạn thưởng lãm ...

Những kết hợp bất thường trong ca từ nhạc Trịnh Công Sơn dưới góc độ ngữ pháp

PHẦN HAI:

3. Những bất thường trong cấu trúc cụm tính từ
3.1. Kết hợp so sánh
Vẫn rất xứng đáng là “kẻ du ca về tình yêu”, Trịnh Công Sơn có những so sánh thật lạ với đối tượng tình: tình xa như trời, tình gần như khói mây, tình trầm như bóng cây, tình reo vui như nắng… rồi tình mềm trong tay (Tình sầu). Ngoài ra còn hàng loạt các kết hợp so sánh bất ngờ với các tính từ hết sức quen thuộc: xanh, trắng, buồn, mong manh, ngoan,…:
– Có những bạn bè xanh như người bệnh (Bay đi thầm lặng)
– Rồi một chiều tóc trắng như vôi (Cát bụi)
– Buồn như giọt máu lặng lẽ nơi này (Lặng lẽ nơi này)
– Thân mong manh như lau sậy hiền (Níu tay nghìn trùng)
– Mặt đường bình yên nằm ngoan như con suối (Thành phố mùa xuân)
– Nắng có hồng bằng đôi môi em/ Mưa có buồn bằng đôi mắt em (Như cánh vạc bay)…
Đứng ở góc độ phong cách học, tất cả những kết hợp nói trên đều thuộc phép so sánh tu từ. So sánh để làm rõ hơn đối tượng, song đồng thời cũng mang tới những đặc trưng mới cho đối tượng. Điều đáng quan tâm ở đây là Trịnh Công Sơn có những so sánh hết sức táo bạo, gây bất ngờ và tạo được những rung động mạnh cho xúc cảm thẩm mĩ ở người nghe.
Trịnh Công Sơn khá nhạy cảm với một số tính từ nhất định như: lênh đênh, tiều tụy, hư hao, thênh thang, bão bùng… Đặc biệt, ông rất hay sử dụng tính từ mong manh, (gió mong manh, cỏ lá mong manh, sống chết mong manh, tay gối mong manh, tình mong manh, thân mong manh…). Với Trịnh Công Sơn, cuộc này thật mà hư ảo. Theo Bửu Ý, dường như đây là một ám ảnh lớn trong vũ trụ quan và nhân sinh quan của nhạc sĩ.
3.2. Sắc màu của Trịnh
Màu sắc của Trịnh cũng thật lạ, nó lại gắn với những sự vật mà người ta không ngờ tới.
Trước hết là màu hồng. Màu hồng nhạt, hồng đậm,… thì bình thường nhưng hồng vừa thì chưa ai nói. (Đấy là ta chưa bàn tới các kết hợp giấc ngủ vừa (Dấu chân địa đàng); tình xót xa vừa (Tình xót xa vừa). Màu hồng xuất hiện trong câu cũng thật đặc biệt: Em hồng một thuở xuân xanh; Mê man trời hồng vượt đồi lên non (Ra đồng giữa ngọ)…
Màu xanh lại càng lạ:
– Chợt hồn xanh buốt cho mình xót xa (Diễm xưa);
– Nhìn lại mình đời đã xanh rêu (Tình xa);
– Thuở hồng hoang đã thấy đã xanh ngời liêu trai (Xin mặt trời ngủ yên)
– Xanh yếu làn da, xanh mướt hồng nhan (Góp lá mùa xuân)
– Tiếng hát xanh xao (Lời buồn thánh)
– Em mướt xanh như ngọc mà tôi có đâu ngờ (Hoa xuân ca)
– Tuổi mười sáu xanh cho mọi người (Môi hồng đào)
Màu tím thì có: Chiều tím loang vỉa hè (Nhìn những mùa thu đi). Màu vàng là vàng phai (Vàng phai trước ngõ). Rồi xanh đi với hồng đến khó hiểu song đầy ám ảnh: Hai mươi giấc mộng xanh hồng quá (Hai mươi màu nắng lạ)…
Ngoài ra, một số từ ngữ đóng vai trò là bổ ngữ trong cụm tính từ của Trịnh Công Sơn cũng làm người nghe bất ngờ. Hình như ông chiêm nghiệm cuộc đời bằng quá nhiều những nhạy cảm: Tóc em dài đêm thần thoại (Gọi tên bốn mùa); Lá khô vì đợi chờ (Như cánh vạc bay)… Ông đã so sánh cái mướt dài, huyền diệu của tóc với đêm thần thoại. Ngoài ẩn dụ lá… đợi chờ, bổ ngữ nguyên nhân ở đây thật lạ với cách lý giải khô vì đợi chờ.
4. Sự chuyển hóa từ loại trong ca từ Trịnh Công Sơn
Sự chuyển hóa từ loại diễn ra trong tiếng Việt không phải hiếm và quá đặc biệt, nhưng khi nghe ca từ nhạc Trịnh, người ta vẫn cảm thấy ông đã phù phép cho những từ ngữ của mình. Một số danh từ được dùng như tính từ, chẳng hạn: Ôi tóc em dài đêm thần thoại (Gọi tên bốn mùa); hay Em đi biền biệt muôn trùng quá (Còn ai với ai). Và cũng không ít những tính từ lại được dùng như danh từ: Vàng phai sẽ cuốn đi mịt mù (Vàng phai trước ngõ); Và tôi đứng bên âu lo này (Này em có nhớ); Ta cười với âm u (Những con mắt trần gian); Đôi tay vẫn còn ôm mịt mùng (Tình xót xa vừa); Bàn tay xôn xao đón ưu phiền (Nắng thủy tinh)…
Thậm chí tính từ chỉ màu sắc vốn không kết hợp với phụ từ mệnh lệnh đi nhé nhưng kết hợp này vẫn xuất hiện trong ca từ Trịnh Công Sơn: Hồng đi nhé xin hồng với nụ (Vàng phai trước ngõ). Đây là trường hợp tính từ được dùng như động từ. Cảm giác rằng ông đã hòa nhập tận cùng với thiên nhiên, nên có thể sai khiến, dụ dỗ cả một nụ hoa. Rồi có động từ được dùng như danh từ: Nghe những tàn phai (tên một bài hát). Như đã nói, bằng một thính lực kỳ lạ, ông đã nghe được bước đi của thời gian trong sự biến chuyển của tạo vật.
5. Những kết hợp bất thường trong cấu trúc câu
5.1. Những cấu trúc dưới dạng định nghĩa
Xét từ góc độ ngôn ngữ, chúng tôi cho rằng Trịnh Công Sơn là một nhà Từ điển họctinh tế, bởi ông đã đưa ra những định nghĩa mới, thú vị cho những sự vật quen thuộc:
– Con sông là thuyền, mây xa là buồm (Bốn mùa thay lá)
– Con sông là quán trọ và trăng tên lãng du (Biết đâu nguồn cội)
– Tên em là vết thương khô (Khói trời mênh mông)
– Tôi thấy tôi là chút vết mực nhòe (Ngày nay không còn bé)
– Đời mình là những chuyến xe/ Đời mình là những đám đông/ Đời mình là những quán không/ Đời mình là con nước trôi (Nghe những tàn phai)
– Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em/ Ngoài phố mùa đông, đôi môi em là đốm lửa hồng (Ru đời đi nhé!)
Từ góc độ phong cách học, có thể xem đây là những so sánh tu từ. Trịnh Công Sơn đã đem đối chiếu, quy hệ những đối tượng thuộc các phạm trù quá cách biệt nhau để tạo nên những hiệu quả biểu đạt, tri nhận sự vật và xúc cảm thẩm mĩ hết sức sâu sắc, gợi nhiều liên tưởng phong phú nơi người nghe. Cho nên nhìn mưa ngoài trời, ông lại thấy đó là những giọt nước mắt của người tình, hình như nỗi sầu đang dâng đầy trong ông. Đi trong đêm lạnh mùa đông, ông tưởng tượng môi em là đốm lửa hồng, sửa ấm lòng người, xua tan băng giá. Với một người khát sống như Trịnh Công Sơn, ngồi nơi này, nhớ nơi kia, lúc nào cũng sợ không đủ thời giờ cho kiếp người, ngoảnh lại đã thấy đời xanh rêu, nên ông luôn luôn thích sự xê dịch, cho nên mới có Đời mình là những chuyến xe, đời mình là con nước trôi… Với quan niệm cuộc đời là một vấn nạn, bấp bênh và tình yêu thì mù lòa, Trịnh Công Sơn hay nói tới danh từ vết thương, và vì vậy mới có Tên em là vết thương khô,…
Không sao có thể diễn tả hết được những ý nghĩa mà Trịnh Công Sơn muốn khoác cho các sự vật, hiện tượng thông qua các định nghĩa của mình. Chỉ có thể nói rằng bởi cách nhìn cuộc đời của ông quá độc đáo, quá tinh tế nên những người đã yêu nhạc Trịnh thì bao giờ cũng yêu cả phần lời ca của ông.
5.2. Những quan hệ bất thường về nghĩa giữa chủ ngữ và vị ngữ
Quan hệ giữa chủ ngữ và vị ngữ trong câu tiếng Việt luôn là mối quan hệ ràng buộc, hai chiều. Thông thường, vị ngữ phải nêu những đặc trưng vốn có ở chủ ngữ, phù hợp với chủ ngữ. Song với Trịnh, vị ngữ luôn nêu những đặc trưng bất ngờ, tự ông gán cho sự vật. Do vậy mới có những lời ca kỳ diệu như ở dưới đây:
– Đêm chờ ánh sáng, mưa đòi cơn nắng. / Những giọt mưa, những nụ hoa hẹn hò gặp nhau trước sân nhà. (Bốn mùa thay lá)
– Trăng muôn đời thiếu nợ mà sông không nhớ ra. (Biết đâu nguồn cội)
– Mùa xuân quá vội, mười năm tắm gội, giật mình ôi chiếc lá thu phai. (Chiếc lá thu phai)
– Về bên núi đợi ngậm ngùi ôi đá cũng thương thay. (Chiếc lá thu phai)
– Đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ, sỏi đá trông em từng giờ (Biển nhớ)
– Bờ vai như giấy mới sợ nghiêng hết tình tôi (Thương một người)
– Gió đêm nay hát lời tù tội quanh đời (Này em có nhớ)
– Mùa xuân vừa đến xin mãi ăn năn mà thôi (Ru em từng ngón xuân nồng)
– Đám rong rêu xếp hàng. (Một ngày như mọi ngày)
– Xin mây xe thêm màu áo lụa. (Còn tuổi nào cho em)
– Một ngày như mọi ngày từng chiều lên hấp hối (Một ngày như mọi ngày)
– Bàn tay xôn xao đón ưu phiền (Nắng thủy tinh)
Phép nhân hóa là một biện pháp tu từ thường thấy trong ca từ nhạc Trịnh. Rất nhiều những sự vật vô tri, vô giác mang tâm trạng con người: cỏ lá biết buồn, biển biết nhớ, gió biết hát, đêm biết đợi chờ, mưa biết đòi cơn nắng, rong rêu biết xếp hàng… Bởi chính nhạc sĩ đã hóa thân vào những sự vật bình thường và tầm thường nhất. Dường như ông muốn trốn chạy khỏi cõi đời mà lúc nào ông cũng thấy chênh vênh, mất mát, bấp bênh. Song khi ông đã yêu thì mọi vật xung quanh ông cũng biết yêu. Đôi khi, trong Trịnh, dòng chảy tâm tư quá nhanh, quá ồ ạt đã khiến lời ca của ông bị dồn nén, các từ bị rút ngắn đến độ khó mà có thể hiểu trọn vẹn từng câu. Đành phải hiểu cảm xúc chung của cả bài. Như trong bài Có nghe đời nghiêng, cả bài hát giống như tâm sự của người ở lại khi tất cả bỗng dưng trống vắng: Ngày thu đông phố xưa nằm bệnh, đàn chim non réo bên vườn hoang, người ra đi bến sông nằm lạnh, này nhân gian có nghe đời nghiêng. Hoặc trong bài Chiếc lá thu phai có câu: Chiều hôm thức dậy, ngồi ôm tóc dài, chập chờn lau trắng trong tay, Trịnh Công Sơn muốn chuyển tải những thông điệp: Cuộc đời thật ngắn ngủi, thật buồn; ngoảnh đi ngoảnh lại, ta đã già; hãy cố gắng để quên đi những ám ảnh về tuổi tác. Cũng phải là một con người trải nghiệm trên đường đời nhiều lắm thì mới có thể viết: Có con đường chở mưa nắng đi (Em còn nhớ hay em đã quên)… Ngôn từ của Trịnh đã kết tinh đến độ đơn khiết, cô đọng nhất.
5.3. Đảo trật tự cú pháp (đảo vị ngữ lên trước chủ ngữ)
Hãy đọc những ca từ sau đây và sắp xếp lại theo trật tự của chúng ta – những người nhìn cuộc đời bằng con mắt trần gian:
– Vừa tàn mùa xuân rồi tàn mùa hạ (Một cõi đi về)-> Mùa xuân vừa tàn, rồi mùa hạ cũng tàn.
– Xôn xao con đường, xôn xao lá (Đoản khúc thu Hà Nội) -> Con đường xôn xao, lá cũng xôn xao.
– Hồng má môi em hồng sóng xa (Đoản khúc thu Hà Nội) -> Má môi em hồng, sóng xa hồng.
– Mệt quá đôi chân này/ Mệt quá thân ta này (Ngẫu nhiên) -> Đôi chân này mệt quá / Thân ta này mệt quá.
– Đừng phai nhé một tấm lòng son (Vườn xưa) -> Một tấm lòng son đừng phai nhé!
– Đã về trên sông những cánh bèo xanh (Khói trời mênh mông) -> Những cánh bèo xanh đã về trên sông.
– Hãy yêu ngày tới dù quá mệt kiếp người. (Để gió cuốn đi) -> Hãy yêu ngày tới dù kiếp người quá mệt …
Cách chúng ta đảo lại như vậy có thể làm ta dễ hiểu hơn, song hình như nó sẽ làm hỏng nhạc Trịnh.
Còn một kiểu sắp xếp nữa mà ta cũng thường gặp trong ca từ của Trịnh. Nó không phải là bất thường, mà là đặc biệt. Đó là việc Trịnh sử dụng kiểu câu đảo bổ ngữ lên trước làm đề ngữ. Cũng có khi thành phần phía trước được xem là trạng ngữ; tuy nhiên, trạng ngữ này lại quan hệ rất chặt với động từ trong câu. Câu thường kết thúc bằng một động từ, nghe khá đột ngột. Thí dụ:
– Vườn khuya đóa hoa nào mới nở / Đời ta có ai vừa qua / Rồi bên vết thương tôi quỳ. / Từ những phố kia tôi về. (Đêm thấy ta là thác đổ)
– Sáng cho em vòm lá me xanh. / Phố em qua gạch ngói quen tên (Em còn nhớ hay em đã quên)
– Im lặng của đêm tôi đã lắng nghe. (Tôi đang lắng nghe)
– Về trong phố xưa tôi nằm (Lời thiên thu gọi)
– Tuổi buồn em mang đi trong hư vô (Tuổi đá buồn)
Thường thì ta sẽ nói: Đóa hoa nào mới nở trong vườn khuya/ Có ai vừa qua đời tôi/ Tôi quỳ bên vết thương./ Tôi về từ những phố kia./ Gạch ngói quen tên phố em qua./ Tôi đã lắng nghe im lặng của đêm./ Em mang tuổi buồn đi trong hư vô… Kiểu câu không kết thúc bằng thành phần bổ ngữ mà kết thúc bằng chính động từ trung tâm, như đã nói, luôn khiến người nghe có cảm giác đột ngột. Song chính điều đó lại làm nên sức hấp dẫn của nhạc Trịnh; để khi nghe nhạc Trịnh, người ta luôn cảm thấy thiếu, muốn kiếm tìm, muốn nghe mãi…
Còn có những kết hợp khó có thể sắp xếp lại theo thứ tự thông thường, cũng khó mà gọi đó là cụm từ hay là câu nữa. Chẳng hạn như: Tuổi nào vừa thoáng buồn áo gầy vai hay Cuồng phong cánh mỏi hoặc Cỏ xót xa đưa… Điều này càng làm cho ta thấy nhạc sĩ nhìn sự vật, nhìn cuộc đời bằng con mắt khác với chúng ta. Lời ca của Trịnh, nói theo Bửu Ý, đã được đặc cách hóa thành Kinh. Kinh là những lời ước nguyện nhằm chuyển hóa thực tại. Kinh của Trịnh Công Sơn là do chính ông phát nguyện, dóng tiếng và gởi gắm trở lại cho chính mình.

Đọc Trịnh Công Sơn dưới góc độ ngữ pháp, chúng tôi không dám nói nó có giúp ta nhiều không trong việc hiểu nhạc Trịnh. Song chúng tôi ghi nhận ở người nhạc sĩ tài hoa này một mẫn cảm ngôn ngữ tuyệt diệu. Bằng những kết hợp lạ lẫm, những so sánh bất ngờ, những sắp xếp độc đáo, thông qua một tri giác bén nhạy, nhiều tầng, đa chiều kích, và với một tâm hồn lãng mạn của một thi sĩ, Trịnh Công Sơn đã làm phong phú thêm kho tàng ngôn ngữ Việt. Trịnh Công Sơn đã sống và đã yêu hết mình, dù cho ông yêu cuộc đời này bằng nỗi lòng của một tên tuyệt vọng. Mỗi ca từ ông để lại cho đời đều thấm đẫm giá trị nhân bản. Hãy sống và yêu đi, như ông đã từng viết: Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ! (Mưa hồng)…
Theo Tạp Chí Ngôn Ngữ
Phiếm luận về Hoa, Thơ và Giai Nhân
Tác giả: Vương Thanh

Hoa, thơ, và giai nhân đều có chung vài đặc điểm. Đó là Đẹp . Đẹp như hoa, đẹp như thơ, còn giai nhân tự ý nghĩa đã là Đẹp rồi, nên không ai nói : đẹp như giai nhân. Một đặc điểm chung nữa là : Hương . Giai nhân và hoa đều ngát hương, mà thơ cũng có hương, tuy hơi trừu tượng một chút, gọi là hương thơ. Hương thơ có thể nhẹ nhàng như một tách trà thơm khi đọc những vần thơ đường luật cổ kính, trang nhã, mà cũng có thể nồng nàn như những đóa hoa hồng khi ca ngợi tình yêu .

Hoa là Hương Sắc ngọt ngào, giai nhân cũng thế, nên người đẹp thường đươc ví với hoa . Như câu thơ trong truyện Kiều : "hoa cười ngọc thốt đoan trang / mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da" . Mỗi loài hoa đều có sắc thái riêng, thường tượng trưng cho những tính chất của con người. Như hoa lan tượng trưng cho vẻ thanh nhã, mong manh cần nơi nương tựa ("mong manh như một cành lan - Vũ Dức Nghiêm") . Hoa sen tượng trưng cho Phật giáo, cho sự cao khiết, "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Hoa hồng tượng trưng cho người đẹp sắc hương ngạt ngào nhưng có gai. Hoa cúc được ví là hoa quân tử vì chẳng ngại cái rét của mùa thu khi nhiều loài hoa khác gặp mùa gió heo may sẽ úa tàn. Hoa quỳnh tượng trưng cho thi nhân, vẻ đẹp thanh tao, cao quý, không dễ gì cho thiên hạ nhìn thấy và thưởng thức lâu "thức khuya mới được gặp nàng, rồi như sương khói phai dần trong đêm". Hoa mai cho mùa xuân, cho sự mềm mại nhưng kiên cường như trong câu thơ xưa "chớ tưởng xuân tàn, hoa rụng hết, đêm qua sân trước một cành mai". Hoa anh đào cho vẻ tươi thắm ngọt ngào của nàng xuân như trong câu "nhân diện đào hoa tương ánh hồng ... đào hoa y cựu tiếu đông phong (mặt người với ánh hoa đào rạng tươi ... hoa đào vẫn thế cười cùng gió xuân (gió hướng đông)) - Thôi Hộ" . Vì mỗi loài hoa có biểu tượng khác nhau, khi tả giai nhân có thể ví với một loài hoa thích hợp, thì sẽ giúp hình dung ra phong thái của giai nhân dễ dàng và thi vị hơn.

Hôm nay, VT cũng xin góp vài bài thơ về hoa. Điểm khác biệt với nhiều bài thơ khác là : đây là thơ về hoa mà cũng là về giai nhân, là thơ ca ngợi giai nhân nên mượn hình ảnh của hoa, là thơ ca ngợi hoa nên nhân cách hóa thành giai nhân :)

Quỳnh Nương

Nàng đến lặng thầm như khói sương
Dịu dàng hơi thở ngát thanh hương
Tơ ngà rạng rỡ hồn trinh tuyết
Áo trắng đài trang dáng ngọc nương
Ánh nguyệt dịu soi giờ hội ngộ
Gió ngàn ngân vọng khúc giai chương
Một trời thu thủy trong lòng mắt
Gọi ý thơ về, đan vấn vương ....

Hoa Trà My
Lớp lớp bạch nhung đẹp dịu dàng
Theo dòng hoài niệm đến tương giang
Long lanh ngọc chất ngời băng tuyết
Thanh thoát trà hương tỏa núi ngàn
Cảm nét nga my trang tuyệt sắc
Thương giòng nữ hiệp đất Văn Lang
Cùng mai, nào ngại trời đông giá
Vẫn nở nụ cười say thế gian !...

Hoa Lan
Hoa Lan trông thật dịu dàng
Thanh tao, mềm mại, nhẹ nhàng hương thơm
Người phong nhã, khách văn chương
Thảy đều ưa thích muốn trồng hoa Lan
Ngắm hoa, lòng thấy nhẹ nhàng
Ngàn câu thơ vụt tuôn tràn ngón tay
Hoa Lan ơi, đẹp lắm thay
Nở lâu cho khách thơ say ngắm nhìn .
Hương hoa dìu dịu êm đềm
Chẳng nồng nàn quá mau chìm sắc hương
Hoa Lan ơi, ta vấn vương
Sao hoa không nói, để buồn lòng ta !
Hoa Lan như biết hát ca
Hẳn giòng suối nhạc thiết tha, tuyệt vời ...
Hoa Lan ơi, hoa Lan ơi
Sao Hoa chỉ biết mỉm cười nhìn ta !...

vương-thanh
20.03.2018
Những đời trăng mới lớn
Tác giả: Phan Thị Trọng Tuyến
Những đời trăng mới lớn*

Tôi nhìn thấy cậu trao quyển vở cho anh Tài, bạn cậu, mặt cậu hân hoan, thích thú, đôi mắt nhìn xéo chỉ còn phân nửa, cử chỉ lén lút, đầy vẻ gian tà.
Cái nét gian tà và lén lút đó cậu truyền qua cả chị Sang, bà chị họ tôi. Chị ở nhà quê lên chơi. Chị trạc tuổi cậu và sắp thi trung học đệ nhất cấp như cậu. Chị trắng tươi, mặt trái soan, cầm nhọn, miệng cười như bông bụp, bông khế, đôi mắt hai mí nâu, vừa to trong vừa long lanh, tóc uốn quăn dài đến ngang lưng, thân hình chị tròn lẵn, ngực eo chỉ thua Thẩm Thúy Hằng chút xíu. Chị là người đẹp vô danh, đáng được ca ngợi, như bài học thuộc lòng "anh hùng vô danh" của lớp nhất, bởi chẳng ai mời chị làm tài tử điện ảnh, cải lương. Chị hiền thục, dịu dàng, nói năng nhỏ nhẹ. Thần tượng không ngai của tôi ngày đó. Bí quyết làm đẹp của chị ? Mỗi sáng rửa mặt bằng nước dừa xiêm! Và tắm mỗi tuần một lần cũng với nước dừa xiêm. Tôi kêu lên :
- Uổng quá trời, rửa mặt thôi, được không? Ở Sài gòn dừa đâu em mua cho đủ số ? Má sức mấy chịu cho tiền?
- Em muốn có bộ mặt như Bạch Tuyết với một thân hình như ...chà và ? Đi Cấp em mặc áo tắm hay pyjama xuống biển?.
Chị nghiêm nghị ban bố bài thuốc gia truyền, cương quyết, khẳng định trên các con số, tôi tin liền song dai dẳng chẳng kém :
- Tại sao phải tắm nước dừa trong vòng một năm lận ? Nước dừa...khô xài đỡ được không?.
Vì tới mùa bán dừa khô, ông ngoại chỉ bán phần "cơm dừa" phơi khô, còn phần bên ngoài, từ vỏ dừa cho tới gáo dừa, mộng dừa, thứ nào cũng được giữ lại dùng trong nhà : củi chụm, chén múc nước, riêng nước dừa bị bỏ chảy tràn mặt đất. Nếu tôi chịu khó xách gáo ra hứng, may ra đủ tắm mấy ngày liền trong mùa bẻ dừa khô. Mấy ngày thôi, cũng đủ.
- Không được đâu cưng à? Làm như vậy da em sẽ chỗ trắng chỗ đen như con cắc kè bông!
Tôi đã thấy cắc kè bông cho nên... thôi, thà đen thui mà đen cho đều. Tuy vậy, trong nhiều năm tôi vẫn mơ tưởng được tắm nước dừa xiêm, và hy vọng rằng dù chỉ một lần cũng đủ trắng da dài tóc. Về quê, ở trong vườn không gặp chị, nên quên mất điều ước, thấy dừa, tôi chỉ nghĩ đến chuyện ăn uống.
Dường như một đôi lần, tôi cũng toan tính "cãi mệnh trời".
Thấy tôi cầm gáo lăm le, ngoại nói :
- Nước dừa khô lạt nhách hè con ơi !
Các cậu, dì, ông dượng, ông chú, ông anh cười tràn rồi sung sướng hè nhau kêu ngoại dẫn tôi ngày mơi, ngày mốt, ngày kia hay ngày kìa, ghé qua vườn họ để nếm nước dừa xiêm vườn nhà họ. Ai cũng( khoe) có vài cây dừa thượng hạng nước ngọt, cơm dừa dày mà mềm nạo, ngon không chỗ chê. Con nhỏ mê nước dừa dữ a ! Tại vì ở Sè Gòn uống toàn nước phông tên, tội nghiệp !. Bao nhiêu chăm sóc dịu mềm khiến gáo (chờ nước dừa khô) lóng cóng trong tay tôi.
- Thôi, cứ uống thử đi cưng, cho biết !
Thì tôi chỉ chờ có bấy nhiêu ! Nhưng nước dừa khô hơn nước mưa một chút tẻo, thua xa nước dừa xiêm, đôi lúc còn đậm mùi xà bông, như cái mộng dừa trắng xốp tuy ngon ngọt hơn. Sau một hai lần lén xách gáo nước dừa đem ra chỗ vắng vốc rửa mặt, nước dừa xiêm hay khô, da mặt tôi dính dáp, rít nhựa khó chịu, ngứa ngáy. Chợt nhớ đến lời chú thích nghiêm trang của chị :Ấy là chưa kể "gặp dừa bị trăng ăn , da có thể bị cùi lỡ hay mụn nhọt ". Hãi hùng quá, tôi liệng gáo, chạy nhào ra sàn nước, kì cọ chà xát tẩy rửa. Làm cạn gần hết nửa lu nước mưa của ngoại mà vẫn còn cái cảm giác rờn rợn trên mặt, nghe như lũ mụn rủ nhau nẫy chồi trên mặt. Phải chi hồi xưa má tôi biết được bí quyết này, thay vì xát xà bông cô Ba, chỉ cần nắm cẳng tôi mà nhúng vài lần vào (thau) nước (dừa) như má ông thần Achille, chỉ đen một chút ở nhượng chân, ăn nhằm chi đâu !
Rồi từ từ lớn khôn hơn một chút, nhìn chị nói chuyện (thỏ thẻ), (khoan thai) ủi quần áo hay gội đầu, (uyển chuyển) bước xuống thang lầu, (óng ả) chải tóc...tôi có linh cảm rằng ngoài nước dừa xiêm, chị hẳn còn những món gia truyền khác, tôi tự nhủ ráng lớn bằng chị bây giờ, theo mè nheo năn nỉ, biết đâu chị sẽ tiết lộ thêm...
*
Chị không hẳn là con gái nhà quê vì dì Năm Ngó, má chị đã dọn nhà ra thị xã Bến Tre ngay sau khi dượng Năm chết, dì thở dài xác định thời điểm :" hồi kháng chiến chín năm". Chị đi học trường nữ trung học thị xã, mặc áo dài trắng đồng phục cũng như mọi nữ sinh trường trung học công lập ở Sài Gòn. Được nghỉ lễ thỉnh thoảng chị đi xe đò lên nhà tôi ở vài bữa, đi mua sắm, dạo phố, xem xi nê, không ai cho rằng chị là con gái nhà quê. Những hôm đó, bạn bè trong xóm của cậu tôi ghé chơi thường và lâu hơn. Chị nói cười duyên dáng, rực rỡ, lúc kín đáo thẹn thùng cũng như lúc hoạt bát.
Nhà tôi thành chật chội, ồn ào rần rần con nít (bọn tôi với bạn bè), choai choai (cậu tôi và đồng đảng). Nhất là buổi chiều, tiếng xe gắn máy "gơ ben","xách", "mô bi lết" nổ vang xóm, khói mịt mù đường hẻm, con nít hàng xóm bu đen ngắm nghía, ngưỡng mộ những anh hùng thời đại mới, tóc chải ổ gà, bi dăng tin bóng lộn: ai không giống James Dean cũng hao hao Elvis Presley hoặc Johnny Halliday.
Từ lúc xe nổ máy đến khi xe chạy tôi tính ra đến hàng thế kỷ , vì các người đẹp bận chải gở trang điểm, hò ới rủ rê nhau, có khi chị hoặc cậu sai tôi chạy vào xóm trong kêu réo người trể hẹn. Vì lắm lúc cậu tôi hứng chí, sẵn khán giả, người đẹp, sẵn không khí (thời chưa chiến** ), cậu ôm đàn ghi ta leo lên giường. Cửa cái cửa sổ không đóng đã đành, cậu còn kêu tôi mở luôn cửa cổng. Từ ngoài người ta có thể nhìn suốt vào nhà : chuồng chim, hồ cá, bàn ghế, giường tủ, đi quăng, và chỗ làm việc ban ngày của gia đình : đó là một khoảng sân gạch rộng chất đầy gỗ ván và những dụng cụ nghề mộc như cưa, búa, bàn bào, thước sắt, thùng đinh, thùng dầu, các lon cọ, sơn, vẹc ni...Trong cùng là sàn nước, nghĩa là nhà bếp, nhà tắm với những thứ lu chứa nước sông (sông cầu Bông, dĩ nhiên vẫn của thời chưa chiến- chưa chiến của lũ nhỏ chúng tôi-, sạch trơn, chiều chiều ai cũng có thể ra bờ sông hứng gió rồi nhào xuống tắm lội ), nước "máy" ( của sông Đồng Nai, trong khe, nhưng má tôi chê có mùi...hóa học) và hồ nước mưa. Nhiều thứ nước vì má tôi phân biệt loại để rửa chân, để ngâm cây, loại tắm giặt, loại nấu nướng, loại uống, mà thứ nào tôi cũng thấy...lăng quăng tung tăng đùa giỡn !
Cậu muốn thiên hạ chiêm ngưỡng chim, cá và những triễn vọng văn nghệ vô danh chứ không phải để quảng cáo mớ lu hay đồ nghề gia đình.
Buổi chiều cơm nước xong ba má tôi lên nhà trên tiếp tục làm việc : tiếp khách tới đặt hàng, lãnh hàng, vẽ kiểu bàn ghế, tủ v...v..Tầng dưới trở thành chốn hội họp của giai nhân, tài tử và quỷ sứ.
Hậu trường (phông ?) xong xuôi chỉ còn chờ tài tử biểu diễn. Cậu tôi hớn hở cắm dây điện vô cây đàn tối tân (nhà có sẵn cây ghi ta và và cây măng đô lin của thờI ba tôi kháng chiến chốn bưng biền, nhưng cậu chê đồ "cổ", cậu sắm cây ghi ta điện thời thượng, dẹp lép, màu mè, thiếu điện thì tiếng kêu điếc đặc, lúng búng lùng bùng như bị ai bóp cổ!).
Xong đâu đó, cậu đứng trên giường-sân-khấu, đầu đội nóc mùng, hai con mắt hớn hở, cậu hắng giọng, búng vài tiếng tưng tưng phừng phừng. Con nít tràn luôn vào nhà, ngồi xuống ghế, xuống đất, trèo lên đi quăng, lên giường, đeo tay vịn cầu thang, chen nhau ngồi trên các nấc thang. Im lặng, thì thào, huých cùi chỏ, kéo tóc, kéo tai nhau rồi há hốc mồm chờ đợi.
Cậu và bạn bè thay phiên nhau lên "sân khấu", trình bày đủ loại ca nhạc cổ kim Ta Tàu Tây, Nhựt. Xong lắc tuýt ờ ghen, I' m sorry...so sorry
Qua "đường về thôn xưa ta hát khúc hoan ca " tới
...cha...cha đến đây con thật là mừng vui....uạ, mẹ, sao mẹ khóc....Ý Nhi ơi ra vườn bắt bướm đi con " hay
kìa một nàng Trung Hoa, răng trắng tinh như là ngà......
Có anh tốt giọng như Anh Ngọc, Duy Khánh, Hữu Phứơc, có anh đỏ mặt tía tai, gân cổ nổi lên bằng sợi dây lòi tói mà âm thanh ra một cách khó nhọc, có anh ồ ồ ông ổng ào ào leo tràn ra ngoài khuôn nhạc, rượt nốt nhạc chạy trối chết. Ai cũng hát với tấm lòng thành và trái tim nóng hổi. Nhưng con nít, chẳng cần phải đắn đo tình lý, cứ thẳng cánh phê bình như lúc xem tuyển lựa ca sĩ trên đài phát thanh mỗi chúa nhật, hay xem phim cao bồi rượt giết dân da đỏ, chúng tôi vỗ tay rần rần, reo hò tở mở, dậm chân huýt gió, yêu cầu, la lối... xuống! xuống! Bis ! bis !...
Chỉ khi những mầm non (đầy nhiệt tình) văn nghệ dẹp đàn, kéo nhau leo lên ngựa sắt ra phố mua sắm giải trí, con nít mới tan hàng...
*
Ấy vậy mà mấy hôm nay mọi chương trình bình thường yên ắng một cách khả nghi, "thiên hạ" tụ họp kín đáo, đông đảo nhưng không ồn ào, không mời gọi khán thính giả. Chị Sang dường như không còn thích thú khuyên lơn, thuyết phục hay đe dọa khi tôi theo lẳng nhẳng cò kè về số ngày và lượng nước dừa phải có. Cậu tôi cũng đìềm đạm dễ ghét. Dĩ nhiên, nghề của cậu là luôn giữ bí mật cho tới phút chót để đánh lạc hướng bọn con nít chúng tôi, chẳng đứa nào kịp vòi vĩnh, kịp năn nỉ khóc lóc. Cho nên tôi quyết tâm lẩn quẩn loanh quanh, mưu toan phá tan mọi kế hoạch từ trong trứng nước, tuy biết chắc mười mươi rằng cậu sẽ thắng, như mọi lần.
Chị Sang cười chúm chím, anh Tài gãi gãi mái tóc chơm bơm, anh Ngộ ráng kềm giọng vịt đực để chỉ cười khục khục trong cổ họng...ô, tất cả mọi người đều có một cái gì chung khiến họ âm thầm thú vị, khoái chí .
Con Mậu, em anh Tài bàn với tôi, phải báo động cho con Huệ cùng để ý và theo dõi. Bộ ba chưa biết phải bắt đầu ra sao thì một buổi tối, Mậu kêu tôi ra ngoài nói nhỏ : mọi bí mật nằm trong quyển vở. Tao thấy anh hai tao trốn trong cầu tiêu để đọc ..
Anh nó vừa đem trả quyển vở cho cậu tôi. Tối đó, như thường lệ bọn con nít chúng tôi bị luà lên lầu ngủ sớm. Chờ yên một lúc, tôi lén bò xuống nhà. Tôi thấy chị Sang đang ngồi hí hoáy viết. Vờ đi tìm nước uống tôi quẹo cua, xà đến lé mắt nhìn, chưa kịp thấy gì cậu tôi đã chạy a lại chen giữa tôi và chị. Chị bật cười lớn vừa đóng ập hai quyển vở, một quyển màu xanh cũ sờn có hình ông đạp xich lô máy, quyển kia màu đỏ, mới toanh.
Rõ ràng chị đang chép cái gì từ quyển xanh sang quyển đỏ. Không thể là tập thơ ca, không thể là nhật ký. Mấy món này tôi đã xem qua rồi. Tập thơ ca cậu chép những bài thơ, bài ca thịnh hành, có dán hình ca sĩ, chính tay cậu minh họa núi non hoa lá, sau này bỏ học chữ để học đàn và đi làm ra tiền rủng rỉnh cậu mới mua những bản nhạc kẻ khuôn, ghi nốt, lời, tên tác giả với tranh bià của họa sĩ Duy Liêm. Còn tập nhật kí đời cậu, bìa đen cứng, chữ mạ vàng, cậu siêng năng và đều đặn ghi chép. Khi viết, bàn tay trái khum khum che mắt thế gian. Sợ người ta cóp ý hay biết được ..tim đen của mình. Cái món này đố đứa nào xin được cậu cho dòm một cái!. Nhưng một lần, đang nhăn nhó cắn bút tìm chữ hay hồi tưởng dĩ vảng, bị Tào Tháo chợt rượt, cậu chỉ kịp ném bút, chạy ào vào cầu tiêu, tôi lợi dụng tình thế, nhào lại ghé mắt xem trộm "lịch sử đời ta" đang nằm mở ra, phơi lòng chi chít những tâm sự.
Chữ cậu nhỏ, góc cạnh mà đều đặn, rắn rỏi mà hiền lành đủ nét, ngay ngắn.
"Hôm .nay lãnh lương ( con số và dấu đồng đô la). Ra Hàm Nghi mua đồ ăn cho cá, hết:...(con số). Đi coi Samson et Dalila, Victor Mature hùng dũng ác luôn, về ghé thạch chè Hiển Khánh ăn hai ly đậu xanh lỏng, ngon, hết thảy:..(con số). Ngon nhưng mắc quá. Trong quảng cáo phim kỳ tới , có Brigitte Bardot, mình phải rủ Tài đi coi. B.B và Marilyn Monroe là hai người con gái đẹp nhất thế giới".
Kết luận cho hai mươi bốn giờ trong đời cậu:" tuy là ngày lãnh lương, nhưng xài như vậy hơi nhiều đó nghen : phải bớt bớt xi nê, đại nhạc hộI, lo để dành tiền mai mốt mua đồng hồ Longines chánh hiệu và bằng vàng. Hàng cuối viết bằng chữ in và có gạch đít với ba dấu chấm than. Cứ hai ba trang câu thần chú đó lại xuất hiện một lần. Mục tiêu đời cậu.
Vậy quyển vở kia là gì ? của ai ? hay ho đến nỗi các cụ phải sao chép và chuyền cho nhau ? Truyện chắc thần kì, ghê rợn, giết chóc dữ dội nên con nít chúng tôi không được xem ?
Chị Sang say sưa chép trong lén lút và ...ngoài ánh mắt tức tối của tôi : tổng cộng chắc hơn ba bốn bản, bởi chị trở về quê với một xấp giấy vở "xích lô máy" nhét kỷ trong các túi xách, bao gói lủ khủ. Cậu tôi vẫn còn cái thái độ rất " mờ ám". Tôi nói với Huệ và Mậu, chỉ còn một cách...
Huệ giao hẹn : đưa tao coi trước nhe. Mậu cũng đòi xem trước. Huệ mê đọc truyện như tôi, học trước tôi một lớp, đậu vào đệ thất trường Trưng Vương năm ngoái, cách đây vài tháng khoe với tôi rằng "tao mới có đường kinh". Hỏi tới tấp nó chỉ tủm tỉm hé lộ từng mảng bí mật, khiến tôi kinh hoàng chờ đợi vì nó hăm "thế nào rồi mày cũng bị à !"."Ừa, chảy máu nhiều lắm""...nhiều là bao nhiêu?..."chảy ồng ộc". "Trời! Mấy tháng lận ? Xùi ! Ba ngày, một tuần thôi ." " Mà chảy chỗ nào? " "Sao mày ngu quá vậy, mà thôi, nói trước làm chi.., mai mốt bị rồi biết !". Huệ là đứa chuyên môn khiến tôi thấy cuộc đời đầy bất trắc. Thí dụ, khi tôi hỏi học lớp đệ thất khó không? Nó trợn mắt :
- Khó lắm, vì sẽ phải học đủ các môn, ngoài các môn bình thường như sử kí, địa lí vv...thêm các môn lạ như sinh ngữ, đại số, trần thuyết, nữ công, gia chánh...mày sẽ phải học với nhiều giáo sư khác nhau, nhiều bà dữ như chằng tinh...Chưa kể một điều : liệu mày có đậu nổi kỳ thi tuyển vào đệ thất không? Thi xong thì biết !
Tương lai nào cũng xa vời vợi, đầy khó khăn, hiểm trở. Tương lai đệ thất và tương lai da trắng như cơm dừa. Dù Mậu hứa : "đưa tao trước, tao mách chuyện đường kinh cho mà biết. Má tao kể hết trơn. Thiệt mà! " Huệ dỗ dành : " tao chỉ chỗ luyện thi đệ thất, bảo đảm đău ngay, rớt trả tiền lại ! "
Sống trong hiện tại, là theo dõi "kẻ gian"( ba đứa tôi vừa đọc xong "vết tay trên trần" của Phạm Cao Củng) là ra tay lấy tài liệu mật ( Z.28 Văn Bình đang gây sóng gió trên các nhật báo) hấp dẫn và dễ dàng, vừa tầm tay..
Tài liệu mật ? Dễ ợt ! Tuy tủ cậu tôi có ống khoá nhưng cậu là vua hay quên khóa, cái gì cậu cũng cất trong tủ nên cứ phải mở ra, đóng vào liền liền, ngày nào cũng trăm lần đóng mở và cỡ chục lần quên cả chìa trong ống khoá. Thành ra cũng như chuyện chim chóc, cá rùa, cậu cấm cản mà lũ tôi đứa nào cũng lắm phen được vuốt ve bồng ẵm những con thú yêu quý của cậu, đứa nào cũng có lần được cậu cho phép đứng trước tủ cậu "coi thôi à nghen, cấm rờ "...
Tủ cậu ngăn nắp và đầy của hay vật lạ, nào là tập tem sưu tầm, tập nhạc, giấy dò -gram xi nê, đại nhạc hội cả chồng, viết máy pa ke còn nằm trong hộp, giàn ná bắn chim có khắc đẽo tên họ, hoa lá, vợt ping pong có chữ kí của (các) tay vợt số một thủ đô, những tập hình tài tử điện ảnh, cải lương v...v...
*
Tôi thó được quyển vở xanh nằn tận dưới mấy lớp quần áo, hí hửng chạy nhào vào buồng tắm. A ha, phen này thì bí mật bị bật mí, bộ ba tụi tôi cũng sẽ chúi vào nhau mà cười, sẽ nhìn nhau nheo mắt...sẽ...sẽ...
Hẳn là truyện phiêu lưu mạo hiểm hay trinh thám gì đây, truyện ngắn tủn chỉ độ mươi trang là cùng. Tựa viết nắn nót bằng ngòi viết lá tre " Bảy đêm khoái lạc". Không nghìn lẻ một đêm, ngắn là phải, nghe cứ như hai mươi ngàn dặm dưới đáy bể hay tám mươi ngày vòng quanh thế giới. Chẳng có tên tác giả, hay là chuyện dịch ?
Nhưng trời hỡi, càng đọc tôi càng thấy...kì cục, truyện chỉ có hai nhân vật là "em với chàng". Hình như là tuần trăng mật sau ngày cưới. Hình như là lời khai của cô dâu. Suốt mấy trang ngắn ngủi, một tuần trăng rùng rợn "em" đớn đau khóc lóc,"em"sung sướng khoái lạc. Đêm thứ nhất rồi đêm thứ hai, thứ ba, đôi nhân vật không ngừng nghĩ quấn lấy nhau, kẻ trên người dưới, có những miêu tả như những màn "võ" kì dị , những thế "đánh" quái gở. Không một câu đối thoại, không một tình tiết gay cấn hồi hộp. Tuần trăng mật là thế a ? Các chuyện tình trắc trở hồi đầu, qua những sóng gió hiểu lầm, mẹ cha cản trở, thường kết thúc bằng cái đám cưới và tuần trăng mật. Và tuần trăng mật có nghĩa như vậy a. Chẳng trăng chẳng mật rặc những chữ nôm na tục tằn thô lỗ chỉ nghe từ các bà bán cá bán thịt ở ngoài chợ Đa Kao hay từ những bà hung dữ nhất xóm khi họ chửi nhau. Tôi đọc một loáng là xong.
...Vừa gớm ghiếc vừa thất vọng tôi chạy vù qua nhà Mậu :
- Chuyện dở ẹc! Và tục lắm, chắc là dành riêng cho tụi con trai. Coi rồi đem qua cho Huệ xem, dặn nó mai trả tao.
Nhưng tôi về chưa được nửa giờ thì bác Sáu, má Mậu, một tay lôi nó xềnh xệch vào nhà tôi, mặt bà trắng bệt, bà thở hổn hển, tay còn lại bà xỉa xói tôi. Nhỏ Mậu không dám nhìn ai, khóc hụ hụ. Tôi chắc cũng xanh mặt vì nhận ra ngay quyển vở chán phèo trong bàn tay đang vung vẩy xỉa xói kia :
- Trời ơi mới bây lớn mà đã bày đặt dụ dỗ con gái tui vào đường dâm đãng!
Tôi hoang mang và cực kì sợ hãi, người cứng đớ ra. Làm sao Z. 29 để rơi tài liệu mật vào tay KGB ? Thôi rồi, đúng rồi, phải chi tôi đưa cho Z.30 Huệ xem trước ! Đúng là chuyện bậy bạ không dành cho con nít, phen này là đòn nặng. Ba tôi từ từ đứng lên, buông viết, bước lại gần má Mău :
- Chị đưa tui coi.
Bà dùng dằng không định đưa như sợ mất tang vật, nhưng rồi cũng đành buông tay, quay sang léo nhéo với má tôi. Lùng bùng hai lỗ tai vì không muốn nghe, nhưng tiếng còn tiếng mất cũng chui được vào đầu tôi :
- Con nít thời nguyên tử mà...hỉ mũi chưa sạch...chuyện tồi bại, tục tĩu...sơ hở là hư cả lũ...thiệt hết sức nói...hết sức nói...hết sức...
Bà than thở vậy chứ vẫn dư nội lực để vừa nói với má tôi, vừa liếc chừng nét mặt của ba tôi lại vừa dằn cánh tay nhỏ của Mậu. Mỗi hết sức nói như vậy, là mỗi lần cái đầu nó va vào hông má nó, vặn lớn tiếng thút thít. Hồi lâu, tôi hơi hoàn hồn, vừa giận lại vừa"khinh" Mậu hèn nhát, chẳng anh hùng tí ti, nếu là tôi ấy à, có mà tra tấn và đổ nước mắm vào mũi, may ra....Không, chưa chắc, sẽ không bao giờ tôi khai...Mậu quên rằng ba đứa đã từng trốn mẹ cha lội sông bắt cá-không tên nào biết bơi-, đã từng bênh nhau hết mình khi phải gây gổ với tụi con gái xóm dưới- . Từng sống chết có nhau mà bây giờ...ôi, con nhỏ dở tệ...
Ba tôi lật lật cuốn tập, hỏi Mậu:
- Của nó đưa cháu mượn à ?
Mậu mếu máo:
- Dạ.. híc híc...mà hổng phải của nó! Híc híc.. Của cậu Tâm...
Thế là lòi thêm tội ăn cắp, cái con Mậu này, bộ nói rứa thì mọi lỗi lầm sẽ chạy qua cậu tao ? nghỉ chơi mày ra !
Thế rồi, thoắt một cái, ba tôi xé tan cuốn tập, trước cái mồm há hốc và ánh mắt dường như tiếc rẻ của bác Sáu.
Ba tôi nói:
- Thứ nhảm nhí đó xé bỏ cho rồi, chị Sáu ! Cháu nó dại, chị đừng chấp, để tui rầy...
Má tôi hét tôi : " đi lấy cây thước bảng rồi nằm xuống chuẩn bị ăn đòn", bà quay qua má con Mậu vừa an ủi(?) vừa hứa hẹn sẽ trừng trị đích đáng kẻ có tội...
*
Ô, nằm dài trên đi quăng, chờ câu hỏi dạo đầu " tội này tính mấy roi?"( và nhẩm trong bụng câu trả lời phổ quát của toàn dân "dạ một roi!")...mà lâu quá không thấy tới, tôi mừng hết lớn, kiểu này chắc có khách tới đặt hàng. Tôi nhỏm dậy ba chân bốn cẳng leo lầu, chui vào giường. Chờ đến mai mọi sự sẽ giảm cường độ, mười roi sẽ hạ xuống còn năm, má tôi sẽ không đủ thì giờ để nhắc nhở :
- Đây là lần thứ...mấy ? Đã dặn không được làm gì để hàng xóm qua mắng vốn, tụi bây là con bất hiếu...v.v..và v.v..
Ngày đó, mỗI lần nghe câu này, tôi rất bất mãn, không hiểu tại sao ba má mình lại "sợ" hàng xóm như vậy. Hôm sau, bản án được giảm khinh đến không ngờ, tôi chỉ bị rầy về tội cả gan lục tủ cậu, không phải ăn cây thước bảng nào hết. Đến tối, ba tôi chỉ nhẹ nhàng hỏi học bài, làm bài chưa, con rửa tay chân, đánh răng đi ngủ !
Cậu tôi cũng hiền hòa thông cảm "dại quá, tao đã nói sách cấm con nít" rồi như thấy chưa đủ cậu hứa thứ bảy sẽ cho tôi theo cậu ra dạo chợ thú Hàm Nghi.
Hình như tôi vừa đặt (giùm? cho ai?) viên đá đầu tiên, hình như tôi vừa bước (giùm? cho ai? tôi? ) cái bước đầu tiên, dễ dàng (??) vô tình và vô tội cho tôi, nhưng quá sức khó khăn cho người lớn. Và những bước kế tiếp thì sao?.
Trong xóm, má con Mậu thù dai, mỗi lần thấy tôi đi ngang nhà, bà hầm hầm ra đứng ngay ngưỡng cửa, đôi tay chống nạnh, hai con mắt trắng dã gườm gườm nhìn tôi, bà sừng sộ như con gà mái xoè cánh bảo vệ con, khiến tôi chưa kịp làm diều hâu phải đành cúi đầu rảo bước. Đã hết đâu, bà qua méc sao đó khiến má Huệ cấm Huệ giao du với tôi suốt một thời gian dài. Thời gian đó, tôi bơ vơ đau khổ vì thiếu bạn chơi và thiếu nước dừa để tắm.
Vài hôm sau nữa, má tôi kêu tôi đến trước tủ sách gia đình, chỉ vào ngăn chứa sách học, chậm rãi bảo rằng tôi nên xem, nên "đọc loại sách này để hiểu biết thêm, chỉ coi tiểu thuyết hay truyện Tàu, không đủ" . Đấy là phần sách tôi ngán nhất, cậu tôi bảo"sách người lớn", ba tôi nói "sách học làm người", tụi nhỏ chúng tôi thì nhìn nhau "sách khó tiêu", đám sách còn phẳng phiu đẹp đẽ vì chẳng đứa nào rớ tới. Thỉnh thoảng tôi lôi ra lật lật phất phơ " Thanh niên và thực nghiệp" "Bắp thịt trước đã" "Nghệ thuật nói chuyện trước công chúng".. "English for you". Quyển má tôi soạn ra đặt sát bên ngoài để lưu ý tôi là "Ái tình bửu giám". Đọc được năm phút, tôi đã ngáp dài, hóa ra cuốn này cũng như quyển vở xích lô báo hại kia, tuy chữ dùng bác học(?), thanh tao, mà cớ chi càng đọc tôi càng tối tăm mặt mũi. Bỏ qua luôn cũng không nghe má tôi nói gì.
Viên đá kế có cần thiết ? Bước thứ nhất cũng là bước cuối cùng?
*
Những ngày tháng nối tiếp che lấp lên nhau, mưa nắng, bão lụt, pháo kích, bom mìn, thoắt một cái những gì đã qua dường như chưa bao giờ có mặt, không một trí nhớ cho ngày hôm qua, cho ngày sắp tới, tất cả chỉ cho một hôm nay duy nhất và rối mù những nguy hiểm, có gì đáng kể, có gì không cần thiết, tôi biết được không?
*
...Cậu tôi dẹp đàn, bán xe sachs mua xe honda, và bắt đầu tương tư mọi bóng hồng thấp thoáng qua nhà trên, trong xóm dưới. Bạn bè cậu đi tứ tán, thỉnh thoảng có về thăm nhưng lớp "bụi chinh chiến" ngăn cách họ với cậu, chẳng bên nào hiểu được bên nào tuy tình bạn vẫn còn. Bạn cậu ngổ ngáo, tự tin, chán đời hay kiêu hùng, tận tình sống cái hiện tại giới hạn của mình, cậu tôi dường như không thể lớn, không phải chỉ vì thân xác không thể lớn. Cậu bị ra rìa mà không hay biết đấy thôi. Tạ ơn trời !. Cho nên cậu vẫn giữ tâm hồn của tuổi choai choai. Cậu sống thoải mái, vô tư trong cái hôm nay của cậu. Trong khi tôi cứ lo rằng mợ tương lai của tôi sẽ cứ mãi là giấc mơ. Như đồng hồ Longines chánh hiệu Thụy Sĩ.
Người đẹp sắp đi ngang, cậu biết từ kiếp trước, nhấp nhỏm chẳng yên, chuẩn bị như đón tổng thống đi kinh lý. Hớt tóc xong cậu diện bộ đồ đẹp nhất, tay chống nạnh để mọi người cùng thấy đồng hồ Seiko, rồi cắm cây si tại chỗ, chờ người đẹp. Cậu ngóng từ lúc nàng còn là một chấm nhỏ trên võng mô, từ bên kia đầu cầu Bông đi tới hay từ dưới chợ Chiều đi lên, rồi mở ống nhắm bao trọn người đẹp từ mười lăm mét bên trái, tới năm mét bề ngang nhà, qua mười lăm mét bên phải nhà, vị chi ba mươi lăm mét (?). Khoảng cách cần sử dụng tối đa (?) để đôi mắt đắm đuối của cậu nói lên những lời nói đam mê của con tim. Tín hiệu cậu kêu ò e như xe chữa lửa. Không nàng nào bị bệnh quáng gà hay lãng tai. Cho nên nàng liếc một cái. Có bà rộng lượng-phải tin là rộng lượng-cười mỉm cho một nụ. Cái liếc cái mỉm dài bằng một tích tắc trên hai mươi lăm mét, hơi ít nhưng đủ để cậu hớn hở quay vào, cả ngày làm việc hăng say vừa huýt sáo líu lo, hào phóng với đám cháu, tối ngồi tả nỗi vui vào quyển nhật kí. Cứ thế cho đến ngày "nàng"lên xe hoa theo người khác. Đường tình duyên của cậu dặm chân tại chỗ mà cậu không biết thay đổi sách lược, nhiều khi tôi có cảm tưởng mình còn sốt ruột hơn cả cậu, và vì cậu vẫn là cậu cho nên tôi vẫn tà tà sốt ruột. Tại cậu đã đốt giai đoạn, phải chi cậu chịu khó đọc "đắc nhân tâm"hay "làm sao chinh phục phái yếu" trước. Phần tôi, về sau dù không có dịp đọc lại quyển nọ hay cuốn kia, tôi thấy rõ ràng chuyện ngày ấy tuy đại khái mà có tác động thô bạo, đã in hằn trong trí nhớ, với những ấn tượng và những câu hỏi. Ấn tượng hay chấn thương? Kỉ niệm hay bài học ?
*
Dạo đó, chị Sang chưa kịp thi Trung học, bỏ trường đi lấy chồng. Đám cưới hơi gấp không ai kịp về dự. Tin tức từ quê lên cũng rời rạc, uể oải, chỉ những cái chết bất ngờ của bà con mới bay đến nhà tôi với nhiều chi tiết và nguyên nhân, như một xác định đến từ vô thức, để người còn lại nghe thấy rõ ràng họ đang sống, đang hiện diện. Chỉ biết rằng chị ở nhà mẹ chồng, sinh con năm một. Không biết để khỏa lấp những mất mát hay giản dị hơn, giúp anh ấy được miễn dịch, miễn bị tổng động viên .
Lần về thăm chị trước khi đi xa, tôi thấy chị nằm trên võng ru bé Sáu, vạt áo hở bờ bụng căng phồng trắng hếu. Con bé Hai chạy đi lấy nước mời khách, bé Ba và bé Tư đang níu tóc nhau dành giựt đồ chơi, con bé Năm đứng ôm sợi dây đưa võng, mở đôi mắt to của mẹ nhìn tôi không chớp. Ông chồng chị cười cười : nếu bé Bảy là con trai, anh sẽ "đi cột bả" . Thấy chị lườm, anh sửa lại :"đem thiến tui". Hồi xưa, phải chi chị ngồi chép "Ái tình bửu giám" cùng lúc với " bảy đêm khoái lạc"? Giản dị như một bí quyết làm đẹp ?
Chị vẫn đài các, quyến rũ, nụ cười hiếm hoi nhưng vẫn như hoa nở rộ, nếu chồng chị giữ lời, "đem thiến tui" ngay sau khi chị sinh bé Bảy, chị sẽ còn đẹp tới ngày trăm tuổi. Năm đứa con gái ! Chắc chị phải mua cả một vườn dừa mênh mông!
*
Mậu rớt tú tài một, bỏ ngang đi bán "ba". Mỗi chiều đi làm Mậu dẫn xe honda ra hẻm, hai con mắt tô xanh cúi gầm chỉ nhìn cái bàn đạp và con đường đất đá lởm chởm, đôi môi đỏ son mím chặt, ô, đôi môi y như ngày nào bác Sáu chu chéo mắng mỏ tôi. Màn kịch năm xưa lại thấp thoáng hiện về, dằn vặt, tra khảo. Lỗi của tôi phải không dù hai đứa chẳng còn thân như trước ?
Tôi còn nhớ, hẳn Mậu cũng chưa quên. Ngày ấy bác Sáu có quá đà ? Ngày ấy bác níu tay Mậu dẫn qua đường người lớn ra sao? Bác tiên tri đúng chăng? Nếu không sao Mậu thiếu nét yêu đời? Hay thật ra Mậu chả nhớ gì, chả bị thương tích chi, có cô gái bán ba nào vui cười khi đối diện với chính mình ? Và tôi có yêu đời đâu dù không phải đi bán ba?
Hàng triệu, hàng tỉ người đã sống, đã đầu thai, hoá kiếp, họ "chép bài" ,"trộm vở" ra sao? Có rầy con, nhiếc móc đay nghiến hàng xóm ?
Tạ ơn ba má đã không cho con ăn đòn thuở nọ.

11-93
* Thơ Nguyễn Đức Sơn :
Huyền diệu quá những đời trăng mới lớn
(trong Những linh hồn trẻ)
** Một tựa sách của Đỗ Kh.

QUÊ NHÀ trong HOÀI NIỆM TRƯỜNG GIANG
Tác giả: Phan Mạnh Thu
***

Biền biệt quê hương rất nhiều năm, nỗi nhớ quê nhà luôn trong tiềm thức, nhưng có nhiều lí do để người đi lần lữa không về. Chỉ sợ khi mở toang cánh cửa dày nặng của một thời quá khứ, phía sau là một khoảng trống vô hình sâu hun hút… Đôi khi ngồi nhẩm thời gian không khỏi giật mình thảng thốt:

Lâu quá chưa về thăm cố hương
Nỗi nhớ dài theo tháng năm trường
Sáo chiều ai thổi sao buồn thế
Dằng dặc trong lòng khúc ly quê…
***

Thế rồi một ngày không hề hẹn trước, tôi đột ngột quay về, dù trong đầu không có chút khái niệm nào về việc sẽ trở về. Quê hương đã đổi thay nhiều quá… lòng cảm nhận sâu sắc hơn bao giờ hết… có nhiều thứ quý giá trong cuộc đời đã trôi khỏi tầm tay…nỗi buồn cứ thế nhân lên…và chợt thấy hối tiếc vì đã quay về…

Chiều nay tình cờ tôi được nghe album Hoài Niệm Trường Giang của Vũ Đức Sao Biển, tôi ngỡ như gặp lại mùi hương nồng nàn của loài hoa dẻ, mùi hương ấy đưa tôi về lại một ngày xưa… nơi ấy quê nhà. Bất chợt tôi tìm thấy trong đó nỗi niềm của chính mình – một người xa xứ, cùng những tiếc nuối, những hoài niệm về một chặng đường đời dằng dặc đã đi qua.
Tôi đã nghe Hoài Niệm Trường Giang với tâm trạng như thế đó, cảm xúc đầy ắp khi gặp lại dòng sông Thu trôi giữa đôi bờ cát, gặp lại bờ tre xanh đầu làng, cùng với những cánh đồng chiều trắng cò bay. Có thời thơ ấu lang thang trên đồi tìm quả dại, có đôi mắt đẫm lệ của người bạn nhỏ, ngày tiễn tôi rời xa mảnh đất Duy Xuyên…

Nghe Hoài Niệm Trường Giang tôi gặp lại giọng nói quen thuộc của người xứ Quảng, những địa danh xa xôi như: Đông Giang, Tây Giang, Núi Thành, Thăng Bình… cũng trở thành thân thiết, dù chưa một lần tìm đến. Tôi bắt gặp lại những triền dâu xanh ngắt, có màu áo lụa Duy Xuyên vàng mơ qua ngõ trúc. Thấp thoáng bóng dáng một chút sương khói mong manh của thời tuổi trẻ, ngọt ngào thay hò hẹn buổi ban đầu, để lại trong lòng người đi nỗi nhớ khôn nguôi và câu hỏi một đời day dứt: Ngày mai về lại đồi quê cũ, ta biết tìm nhau ở chốn nào?..hoa xưa vẫn tím màu thương nhớ, còn có ai chờ trên bến xưa….

Nghe Hoài Niệm Trường Giang , tôi lại muốn quay về. Về Quế Sơn, Trà My, đi tìm mùi hương quế. Về Nông Sơn, ghé qua thăm mảnh đất Đại Bường bốn mùa cây trái sum suê, rồi ngược dòng sông Thu lên thăm Hòn Kẽm Đá Dừng. Về Duy Xuyên nghe tiếng tằm ăn rỗi, đi tìm màu hoa tím một thời gắn bó tuổi thơ. Về Hội An thưởng thức cao lầu, nhìn nắng vàng rơi trên Hoài phố, trải lòng theo những điệu hò khoan…
Về thăm mảnh đất Tam Kỳ, nơi gánh nặng hai đầu Nam Bắc. Về nhìn những tan tác thương đau, mà đất Quảng đã gánh chịu mỗi khi mùa mưa bão đến, cùng những trận gió Lào rát bỏng thịt da mỗi độ sang hè, có như thế mới biết cảm thông cho tính tằn tiện chắt chiu, như đã thấm sâu vào máu thịt của người dân xứ Quảng…
Về xem Đà Nẵng mỗi ngày càng thêm rực rỡ, một Bà Nà xinh đẹp như mơ, cùng với phố núi Sơn Trà vẫn còn đây đó đôi nét hoang sơ. Mới thấy hết công ơn của các bậc tiền nhân, những người đi khai hoang mở đất buổi đầu, đã làm một cuộc hành trình dài về phía phương Nam.
Giờ đây, quê hương lại thôi thúc trong tôi, mà ngày về… có lẽ hãy còn xa lắm…

Nửa cuộc đời xa biệt đất quê
Khi ngoảnh lại sương phai màu tóc
Quê nhà ơi! Nơi bình yên nhất
Khi chùng chân lại muốn quay về…

PHAN MẠNH THU
QUANG DỰ - MỘT TÂM HỒN NHẠY CẢM
Tác giả: Hàn Quốc Sinh

Mây xám giăng kín trời u ám
Gió luồn mưa trong rét tái tê
Nhớ người xa cách lòng ngao ngán
Trông ra ngõ nhỏ ngóng anh về

Anh hẹn chiều nay anh về mà
Có biết trong em những thiết tha
Gom lại trao yêu thương nồng ấm
Bù cho giây phút phải cách xa

Anh về đây rồi em nhé ngoan
Em nhiều vất vả với lo toan
Có anh về bên mình chung sức
Sống để cho nhau chữ vẹn toàn

Thế là mong nhớ đã thoả lòng
Xá gì giá buốt buổi chiều đông
Với lửa ân tình ta giữ mãi
Ta bên nhau tha thiết mặn nồng.

(Mong nhớ anh về)
Hải Phòng, 28/ 12/ 2017

Tôi và anh gặp nhau hết sức tình cờ trên cảm xúc thăng hoa của chút tâm tình thi nhân. Anh thuộc "type" người sống tình cảm là chính. Chính vì điều đó nên chúng tôi đồng điệu và cùng nhau trải lòng mình ra với nghệ thuật.

Mượn cảnh tả tình là một thế mạnh từ ngòi bút của anh. Nó như một bức tranh nổi mà chính anh đích thực là một họa sỹ khá tài ba với những nét cọ thăng hoa và cực kỳ sinh động. Với tông màu sáng, anh đã không ngại cho ra đời một kỳ tác mà "fan" hâm mộ của anh là "nhân loại".

Mây xám giăng kín trời u ám
Gió luồn mưa trong rét tái tê
Nhớ người xa cách lòng ngao ngán
Trông ra ngõ nhỏ ngóng anh về

Từng câu, từng chữ trong thơ của anh như cứ chực chờ nhảy vọt ra ngoài, nó như thoi thúc, gọi mời ngọt ngào và tình tứ. Phải chăng sự mời gọi đó vừa nửa thực, nửa mơ hay đó chỉ là những rung cảm buồn vui lẫn lộn giữa hờn giận và nhớ thương rồi trông chờ, trách móc. Thế đấy, tình yêu thật vy diệu và thi vị làm sao. Nó luôn luôn để lại trong tâm hồn của mỗi chúng ta những hoài niệm và nuối tiếc khi bất ngờ bắt gặp những kỷ niệm hay quang cảnh gần giống như vậy thì lúc đó trái tim của chúng ta cũng bất giác xao xuyến và lâng lâng khó tả. Nỗi nhớ và đợi chờ như một cực hình treo ngược hành hạ rất đáng sợ.

Anh hẹn chiều nay anh về mà
Có biết trong em những thiết tha
Gom lại trao yêu thương nồng ấm
Bù cho giây phút phải cách xa

Khi trọn được ước mơ và thỏa mãn những khát khao của đời thực thì mỗi người trong chúng ta ai ai cũng cảm thấy cuộc sống của mình đáng yêu và vui sống hơn. Tác giả đã rất khéo léo khi anh biết khi nào cần đưa vào trọng tâm cái cốt lõi để chốt lại vấn đề.

Anh về đây rồi em nhé ngoan
Em nhiều vất vả với lo toan
Có anh về bên mình chung sức
Sống để cho nhau chữ vẹn toàn

Yêu và được yêu là một điều tuyệt vời nhất. Khi mà cả nhân loại này ai ai cũng không thể nào chối bỏ được một khi tình yêu gõ cửa lòng. Tình yêu giúp cho tuổi trẻ thêm hăng say trong công việc, tuổi già thấy thêm yêu cuộc sống hơn. Khi chúng ta tìm được một tình yêu đích thực cho chính cuộc đời của mình thì cạnh những lo toan và khổ đau dường như hoàn toàn không còn chỗ.

Thế là mong nhớ đã thoả lòng
Xá gì giá buốt buổi chiều đông
Với lửa ân tình ta giữ mãi
Ta bên nhau tha thiết mặn nồng

Một kết thúc thật có hậu và đẹp làm sao. Chỉ một câu: "Ta bên nhau tha thiết mặn nồng". Cũng đủ cho bao nhiêu sự chờ mong khắc khoải và nghĩ ngợi vu vơ khi mà tất cả những điều đó bây giờ được đáp đền một cách xứng đáng.

Mong rằng anh sẽ còn cống hiến nhiều hơn những đứa con tinh thần bụ bẫm và đáng yêu hơn thế nữa!

Nhà phê bình Văn học
HÀN QUỐC SINH
TÀ ÁO XANH
Tác giả: Phan Mạnh Thu
***
Chỉ còn hơn mười ngày nữa là giáng sinh, mà không khí Sài Gòn vẫn còn oi bức quá. Chị ra khỏi khách sạn, đi dạo dọc theo vỉa hè, rảo qua những cửa tiệm với các ô cửa kính sáng loáng, rực rỡ màu sắc bởi những cây thông Noel đã được trang trí. Hai mươi sáu năm rồi chị mới quay trở lại quê hương, Sài Gòn bây giờ khác xưa nhiều quá, những cao ốc vòi vọi nhìn mà chóng mặt. Ở bên Pháp mỗi lần nghe Lê Uyên hát “…Sài Gòn bây giờ trời mưa hay nắng? Sài Gòn bây giờ ai khóc thương ai…Sài Gòn bước ai gõ xuống đêm sầu, Sài Gòn bóng nghiêng Sài Gòn đứng đợi, Sài Gòn bây giờ cúi mặt xa nhau…” là lòng chị rưng rưng muốn khóc, nhưng chị không muốn trở về, chị sợ phải nhớ lại những kỷ niệm mà chị đã chạy trốn, nhưng hôm nay cũng chính vì nó mà chị lại quay về…
***
Chị đi dần về phía cuối con đường Bà Huyện Thanh Quan, nơi ngày xưa có quán cà phê mang tên Nỗi Nhớ, nơi chị và Nguyên hẹn hò nhau vào mỗi cuối tuần, chẳng biết bây giờ nó có còn không. Chị vô cùng mừng rỡ khi nhìn thấy ngôi quán cũ hiện ra, cũng vẫn màu sơn xanh da trời quen thuộc như ngày xưa. Quán đã được đổi tên thành Trúc Lan, cách trang trí của quán đúng như tên gọi của nó, hai bên cửa có trồng mấy bụi trúc hoe vàng, còn những chậu lan đủ màu sắc thì được treo rải rác khắp trong sân. Chọn một chỗ ngồi dưới vòm trúc, chị gọi một ly cà phê sữa nóng, lắng nghe giọng hát trầm buồn của Lan Ngọc trong ca khúc Tình Nghệ Sĩ. Không gian cũ… âm nhạc cũ… đã đưa ký ức chị trở về những năm tháng xa xưa…
***
Mùa hè năm chị mười bảy tuổi, chị được ba mẹ cho về Đà Lạt chơi ở nhà cô. Đó là lần đầu tiên chị đến Đà Lạt, thành phố cao nguyên thật trầm mặc lặng lẽ, khác hẳn với Sài Gòn quê chị. Dù đang mùa hè chiều xuống trời vẫn lạnh, đặc biệt ở đâu chị cũng nhìn thấy hoa, có nhiều loài hoa rất lạ. Cái giàn hoa chị đứng ngắm buổi sáng hôm ấy, nơi lần đầu chị gặp Nguyên, có màu đỏ cam rất đặc biệt, khi cánh hoa chưa nở nhìn giống như hoa thiên lý, chị gọi nó là hoa Thiên Lý Mặt Trời. Lúc ấy Nguyên đã xuất hiện trước mặt chị và nói - Cho tôi vẽ cảnh cô bé với giàn hoa này nhé? Giọng Bắc của Nguyên nghe mới hay làm sao, nhưng tất nhiên chị từ chối rồi bỏ đi. Nguyên cứ lẽo đẽo theo sau chị một đoạn dài và năn nỉ mãi, hứa sẽ tặng chị bức vẽ khi nó hoàn thành, thế là cuối cùng chị cũng xiêu lòng. Nguyên chọn tư thế ngồi mẫu cho chị, loay hoay mãi đến trưa mới xong bản phác thảo, Nguyên hẹn gặp chị ngày mai với bức tranh hoàn chỉnh.
***
Sáng hôm sau tới chỗ cũ, chị thấy Nguyên đã ở đó, chị chẳng hiểu gì về hội họa, nhưng chị thấy Nguyên vẽ thật đẹp, đôi mắt chị trong tranh, đầy ngạc nhiên thích thú, khi nhìn những bông hoa Thiên Lý Mặt Trời. Nguyên đặt tên bức họa là Tà Áo Xanh. Chị hỏi Nguyên tại sao lại chọn tên như thế, Nguyên bảo vì Nguyên thích màu xanh ngọc của chiếc áo chị mặc và cũng rất thích bài hát Tà Áo Xanh của Đoàn Chuẩn, bài hát này thì chị quá quen thuộc vì mẹ chị vẫn thường hay hát, hồi trước giải phóng mẹ chị vốn là một ca sĩ phòng trà, khi gặp ba chị rồi thì bà đã bỏ nghề.
***
Từ đó chị và Nguyên gặp nhau mỗi ngày, Nguyên chở chị bằng xe đạp, đi qua nhiều con dốc nhỏ tìm cảnh vẽ, thấy chỗ nào đẹp là lại bắt chị làm mẫu, dù chị mặc bất cứ màu áo gì Nguyên cũng biến nó thành màu xanh hết thảy. Có lần chị hỏi Nguyên - Không biết tác giả Tà Áo Xanh thích màu xanh nào nhỉ, da trời hay xanh ngọc? Nguyên bảo - Có lẽ cả hai, vì màu xanh ngọc là màu của cốm mùa thu, còn màu thanh thiên là màu của bầu trời mùa thu - Riêng Nguyên thì Nguyên thích cả hai màu xanh ấy.
***
Hết hè chị và Nguyên trở về Sài Gòn, Nguyên vào mỹ thuật năm thứ tư, còn chị học lớp mười hai. Cứ mỗi cuối tuần, Nguyên lại đưa chị đến quán cà phê Nỗi Nhớ nghe nhạc Đoàn Chuẩn. Nguyên bảo đã khám phá ra chỗ này vào năm thứ nhất đại học, cũng từ đó yêu thích luôn những màu xanh. Lần nào đến quán Nguyên cũng yêu cầu bài Tà Áo Xanh, còn chị lại thích nghe bài Gởi Gió Cho Mây Ngàn Bay. Chịu ảnh hưởng của Nguyên, lần hồi chị bắt đầu thấy thích những bài hát viết về tà áo xanh và mùa thu của Đoàn Chuẩn. Khi chị thi đỗ vào đại học, Nguyên bày tỏ tình cảm với chị và chị đã nhận lời.
***
Chị bước chân vào đại học được vài tháng, thì tai họa ập xuống gia đình chị. Xưởng dệt nhà chị đột nhiên nửa đêm bốc cháy, trước đó một tuần, ba chị vừa nhập về một lượng sợi rất lớn. Xe cứu hỏa phải mất hàng giờ mới dập tắt được ngọn lửa, nhưng tất cả máy móc, tơ sợi , vải vóc thành phẩm chẳng còn lại gì. Phút chốc trắng tay, ba chị bị sốc rất mạnh, ông đã ra đi mãi mãi trước khi kịp tới bệnh viện. Cái chết của ba chị đã để lại nỗi đau quá lớn cho gia đình, mẹ chị phải nhập viện vì bệnh tim tái phát. Cô chị từ Đà Lạt xuống lo hết mọi việc, chị thì khóc mãi, trong lòng cứ lo sợ rồi mẹ cũng đi theo ba.
***
Mọi chuyện không dừng lại đó, đến hạn không tiền trả nợ ngân hàng, nhà xưởng bị niêm phong, Tài sản nhà chị chỉ còn lại mỗi căn nhà, nơi gia đình chị gắn bó hơn hai mươi năm qua, dù đau lòng mẹ chị cũng phải rao bán. Mẹ mua một căn nhà nhỏ ở ngoại thành, dù mẹ can ngăn chị vẫn nghỉ học để đi làm, chị xin vào làm kế toán trong một cửa hàng bách hóa. Suốt thời gian ấy, Nguyên vẫn ở cạnh an ủi động viên chị, nhưng chị chẳng thể nào nguôi ngoai được.
***
Một người bạn cũ của ba chị ở Pháp về tìm tới nhà thăm, bác mở lời với mẹ chị, xin cho chị về làm dâu nhà bác. Con trai của bác lớn hơn chị tới mười tuổi, đang định cư tại Pháp. Anh đã để ý tới chị từ khi chị còn là cô bé, vừa đặt chân vào ngưỡng cửa trung học. Mẹ hỏi ý chị, sau nhiều đêm trằn trọc suy nghĩ, chị đã nhận lời. Hồi ấy tình yêu của chị với Nguyên, chưa đủ sâu nặng để chị sống chết vì nó, chị còn quá trẻ vẫn chưa tới tuổi hai mươi, với chị con đường phía trước sao mà mờ mịt quá, bệnh mẹ chị thỉnh thoảng lại tái phát, rồi còn việc học hành của hai em trai chị nữa. Mẹ Nguyên thì từ ngày nhà chị sa sút, thái độ của bác đối với chị cũng đã khác đi rất nhiều.
***
Chị với Nguyên vẫn gặp nhau mỗi tối, mẹ bảo sẽ nói cho Nguyên biết về quyết định của chị, chị lắc đầu nói mẹ hãy để chị tự đối mặt với việc này. Nhưng rồi chị cứ lần lữa mãi, thời gian còn lại của chị bên Nguyên quá ngắn, nói sớm ngày nào chị sẽ mất Nguyên sớm ngày đó, nghĩ tới việc ấy là trái tim chị lại đau nhói. Cho đến trước ngày cưới một tuần, chị mới dám nói hết với Nguyên mọi chuyện. Chị không bao giờ quên khuôn mặt của Nguyên lúc ấy, Nguyên nhìn chị tái xanh thảng thốt và đầy vẻ đau đớn, đôi mắt như đau đáu một câu hỏi tại sao?..tại sao?.. Nguyên không thốt ra một lời nào trách móc chị và cứ thế lặng lẽ quay lưng, chị nhìn theo bóng Nguyên lòng tan nát. Cũng kể từ hôm đó, chị không gặp lại Nguyên một lần nào nữa.
***
Trước hôm cưới một ngày, chị nhận được một cuốn băng cassette do Nguyên gởi đến. Đêm đó chị đóng cửa phòng mở băng ra nghe, toàn bộ cuốn băng chỉ có mỗi một bài hát Tà Áo Xanh được thu lặp đi lặp lại “…Rồi chiều nào xác pháo bên thềm tản mác bay. Em đi trong xác pháo, anh đi không ngước mắt thôi đành em…trách sao hoa xưa còn có lúc tàn, nhưng riêng anh dệt mấy cung đàn, nhạc đời còn ghi những nét thương yêu, hoa tàn tình tan theo không gian…” Lời hát cứ như lưỡi dao, xoáy sâu thêm vào trái tim vốn đã nhiều đau đớn của chị. Bài hát Tà Áo Xanh chẳng lẽ là mặc định cho tình yêu của chị và Nguyên. Chị đã khóc, khóc rất nhiều cho mối tình đầu của mình một lần sau cuối…
***
Tròn hai mươi tuổi chị theo chồng xa xứ, chồng chị là một người rất tốt, tính tình điềm đạm sâu sắc và tỉ mỉ. Anh gượng nhẹ chăm sóc chị từng li từng tí. Anh không nhìn thấy, hay vờ không nhìn thấy đôi mắt vốn lúc nào cũng đầy những nỗi u uẩn của chị. Hình như lúc nào anh cũng như đoán trước được ý chị, để nương theo đó mà làm cho chị hài lòng. Còn chị vốn là người có lý trí mạnh hơn tình cảm, khi đã quyết định điều gì chị sẽ không hối hận, chị đã quyết tâm đoạn tuyệt mối tình đầu, chôn thật sâu những ký ức ngọt ngào của thời con gái. Đôi lúc hình bóng Nguyên chập chờn hiện về, thì chị lại gạt nó ra khỏi đầu, chị đã từng có lỗi với một người, nên không muốn lại có lỗi thêm với người thứ hai nữa. Rồi con gái chị ra đời, ngày lại ngày con bé chiếm hết trái tim chị, chị không còn thời gian để nghĩ ngợi đến chuyện cũ nữa. Chị đã làm một người vợ trọn vẹn đúng nghĩa, trong suốt mười sáu năm chị chung sống cùng anh.
***
Gần mười năm trước chồng chị qua đời vì bệnh tim, con gái của chị lúc ấy mới mười lăm tuổi, đó là thời điểm chị thấy mình cô độc ghê gớm. Một lần dọn dẹp lại phòng làm việc của chồng, chị phát hiện hai vật thuộc sở hữu của chị, lại đang nằm sâu trong ngăn kéo của anh, đó là cuốn băng cassette và bức họa Tà Áo Xanh. Chị vô cùng kinh ngạc, ngày ra đi chị đã quyết tâm quên mối tình đầu nên để chúng ở lại. Vậy ra từ lâu anh đã biết chuyện của chị, có lẽ ngày anh về đón mẹ và hai em chị sang Pháp, anh đã nhìn thấy nên mang chúng đi theo. Khi chị hỏi mẹ, mẹ chị cũng rất ngạc nhiên về điều này.
***
Gặp lại kỷ vật cũ, đánh thức trong chị, những ký ức tưởng chừng như đã lãng quên. Lúc đầu chị còn cảm thấy có lỗi với người đã khuất, sau đó nỗi nhớ Nguyên mỗi ngày càng thêm cồn cào da diết. Hơn lúc nào hết, chị cảm nhận sâu sắc những câu thơ của Phạm Thiên Thư: Ôi mối tình đầu - Như đi trên cát - Bước nhẹ mà sâu - Mà cũng nhòa mau - Tưởng đã phai màu - Đường chiều hoa cỏ… Nhưng rồi lý trí đã giữ chân chị lại xứ người thêm mười năm nữa, giờ đây con gái chị đã trưởng thành, con bé tốt nghiệp đại học và ổn định việc làm cũng đã vài năm, thế nên chị quyết định quay về…
***
Ngày hôm sau chị lại đến quán Trúc Lan, giọng hát Mai Hương đang vào đoạn cuối bài Chiều Mơ, câu kết của bài hát nghe mà não lòng quá
“…Dù ngày về chỉ có…chiều mơ…” Nghĩ đến ngày về của mình chị cảm thấy chạnh lòng vô hạn. Chị vẫy tay gọi cô bé hầu bàn đến và yêu cầu bài Tà Áo Xanh, chị tựa lưng vào ghế nhắm hờ đôi mắt và thả lỏng đầu óc. Khi chị mở mắt ra, một cô gái đang nhìn chị chăm chú, cô gái hỏi chị bằng giọng Bắc pha giọng Sài Gòn nghe ngồ ngộ - Cô thích nghe nhạc Đoàn Chuẩn có phải thế không ạ? Chị gật nhẹ đầu, cô gái hỏi tiếp - Hình như cô ở xa mới về? Chị lại gật đầu - Thế trước đây cô đã tới quán Trúc Lan lần nào chưa? Chị trả lời - Lâu lắm rồi, cũng đã ngoài hai mươi năm, ngày ấy nó mang tên là Nỗi Nhớ.
***
Mấy ngày tiếp theo sau đó, cứ thấy chị đến là cô gái lại mở bài hát Tà Áo Xanh, rồi đến ngồi bên cạnh nói chuyện cùng chị. Cô gái có đôi mắt ấm áp và quen thuộc khiến chị có cảm tình, nên chị cũng cởi mở hơn. Có hôm chị nghe bài Gởi Người Em Gái, được hát với giọng nam trầm rất lạ (hình như đây là bài hát duy nhất Đoàn Chuẩn viết về mùa xuân) trong tiếng đàn guitar thùng nghe da diết vô cùng, chị mơ mơ hồ hồ tưởng chừng như giọng hát từ thuở xa xưa nào đó vọng về… Cô gái bảo đó là tiếng hát của ba cô, dành tặng cho một người quen cũ, chị cảm thấy những lời trách móc trong bài hát sao mà giống như là dành cho chị: “...Nhưng một sớm mùa thu khép giữa trời tím ngắt, nàng đi gót hài xanh, nàng đi trong dạ sao đành, đường xưa lối cũ ân tình nghĩa xưa…” Tự dưng tim chị bỗng thấy đau nhói.
***
Dần dà chị đã kể cho cô gái nghe về gia đình chị, cô cũng kể chuyện của cô cho chị nghe. Cô chính là con gái của chủ quán, Trúc Lan là tên của cô, mẹ mất lúc cô mới hai tuổi, bố cô vẫn ở vậy nuôi cô khôn lớn. Mười tám năm trước, bố cô mua lại quán cà phê này, chỉ thay đổi mỗi cái tên thôi, chứ không sửa sang gì nhiều về vẻ bề ngoài của quán. Cô đã hai mươi hai tuổi, vừa tốt nghiệp xong ngành công nghệ sinh học, hiện đang tìm kiếm việc làm. Một hôm Trúc Lan hỏi chị - Ngày mốt là noel rồi cô có định đi đâu không? Chị trả lời - Cô định mai về Đà Lạt cùng người thân đón Noel, tiện thể xem festival hoa luôn. Trúc Lan bỗng nắm tay chị và nhìn chị với ánh mắt nài nỉ - Sau Noel cô hãy đi Đà Lạt nhé, tối hai mươi bốn cô đến đây, con có một món quà muốn dành tặng cho cô. Thấy giọng cô gái tha thiết quá đỗi cùng với ánh mắt đó, làm chị không thể nào từ chối nên đành nhận lời, lúc chị ra về Trúc Lan còn nhắc đi nhắc lại sợ chị quên.
***
Hơn mười giờ tối đêm giáng sinh, chiếc taxi chở chị bị kẹt giữa một rừng xe cộ, chị trả tiền rồi xuống đi bộ, len lỏi trong đoàn người. Chị thấy ở Châu Âu, trong những ngày lễ tết đường phố rất vắng vẻ, ai cũng muốn về sum họp với gia đình, còn ở Việt Nam thì dường như mọi người đổ hết ra đường. Từ xa chị đã nhìn thấy Trúc Lan, cô gái đang đứng trước cửa với dáng điệu bồn chồn. Nhìn thấy chị, Trúc Lan mừng rỡ - Con cứ sợ cô không đến. Chị đáp - Cô bị kẹt xe, mà sao quán vắng tanh thế này, tối nay con không bán sao? – Dạ không! tối nay quán nhà con chỉ có mỗi cô là khách đặc biệt thôi.
***
Trúc Lan đóng cửa quán rồi kéo tay chị vào trong, cô đưa chị lên lầu đến trước một căn phòng, cô đẩy cửa ra rồi nói với chị - Cô vào trong đi. Chị nghe theo và bước qua cánh cửa… đột nhiên chị khựng lại tròn mắt kinh ngạc, chị nhìn thấy những bức tranh Nguyên vẽ chị ngày xưa, màu áo xanh tràn ngập cả gian phòng. Tim chị thắt lại giây lát rồi đập thật nhanh, chị lảo đảo vịn tay vào một chiếc ghế rồi ngồi xuống thở dốc. Một bàn tay đặt nhẹ lên vai chị, chị ngước lên và bắt gặp ánh mắt quen thuộc ngày nào, Nguyên đó Nguyên đang cúi xuống nhìn chị, nước mắt chị giọt nọ nối giọt kia cứ thế lăn dài xuống má. Nguyên siết nhẹ tay chị và nói nhỏ - Mừng Thanh Trúc đã quay về. Xa xa… chị nghe tiếng chuông nhà thờ đang đổ từng hồi rộn rã, có lẽ đã bắt đầu thánh lễ nửa đêm…

PHAN MẠNH THU (12/2010
LY TÌNH ĐẬM CHẤT TRONG THƠ CỦA NHÀ THƠ DƯƠNG HUỲNH
Tác giả: Hàn Quốc Sinh

Trên bình diện một hay nhiều luận điểm của một hay nhiều góc cạnh của Văn học và nghệ thuật thì ai ai trong chúng ta cũng đều mong muốn hoàn thiện chính mình và khơi gợi sự chú ý những cái cần và đủ của nền văn minh, văn học trong và ngoài nước. Với tư cách là một nhà lí luận phê bình. Tôi tin rằng với một người cầm bút, họ cũng sẽ giống như tôi, luôn luôn khát khao tìm kiếm và đào sâu đến đỉnh cao của thế giới văn học. Cái đích vốn đã là một sự tiềm tàng và ẩn chứa biết bao là những điều kỳ thú. Từ những học thuyết cơ bản đến nâng cao, từ bất cứ một hay nhiều giả thuyết thì phương pháp luận vẫn luôn luôn tồn tại trong bộ não của chúng ta dù tầm thường đến bất bình thường của cái gọi là triết lý nhân sinh. Chúng ta cùng nhau tham luận.

Sẽ thật tuyệt vời nếu trong cõi nhân sinh này còn vang mãi những vần thơ tình và biết bao nhiêu tình khúc đậm chất tình của một thời vàng son mà bất kỳ ai trong chúng ta dù ở bất kỳ lứa tuổi nào. Dương Huỳnh - người con dấu yêu của miền Trung nắng cháy. Nơi sinh ra không ít những bậc hiền tài. Anh tên thật là Huỳnh Khánh Dương, sinh ngày 10 tháng 8 năm 1966. Anh đã có rất nhiều thơ in chung. Ngoài làm thơ ra anh còn là một MC và ca nhạc. Nhạc phẩm ấn tượng nhất là bài: Lạc mất nhau rồi 2, lời thơ Dương Huỳnh, phổ nhạc Giao Tiên. Anh đã minh chứng điều đó qua rất nhiều tác phẩm thơ và nhạc được phổ từ thơ của anh. Riêng mảng thơ của anh đã khiến tôi phải thốt lên khi anh đã cho độc giả của mình thấy hết được sự tha thiết và những tình cảm sâu đậm:

“Anh vẫn muốn một ngày tao ngộ
Khoảng trời xanh nhường chỗ đôi ta
Ái ân… ta đón trăng ngà
Nuốt cho cạn kiệt hương hoa xuân thì”.
(Tình trăng)

Từng con chữ trong thơ anh cứ chen nhau mà đứng lên để bay vào cái cảnh giới mà ai ai cũng thầm ao ước là “tiên cảnh”. Với những chữ “nhường chỗ”, “đón”, “nuốt”, khơi gợi và vẽ lên một bức tranh ái ân thật hoàn hảo, không hề có tỳ, có vết khi chúng ta ngắm nhìn nó. Qua đó anh đã cho chúng ta thấy rằng, chỉ cần có một trái tim chân thật và sự cương quyết mãnh liệt trong tình yêu thì khó gì chúng ta cũng đến được với nhau mà không cần phải sợ bất cứ một trở lực nào. Ấy thế mà cũng có lúc anh bị thua buồn và chán nản khi:

“Ngày xưa chẳng dám nói ra
Em đành bỏ mặc người ta… theo chồng
Nhận được tin báo thiệp hồng
Trái tim vụn vỡ… nỗi lòng quặn đau.”
(Tình đầu)

Sự thật bao giờ cũng phũ phàng và cay đắng. Anh tự trách mình cớ sao “chẳng dám nói ra” để giờ phải khổ đau như thế này. Đọc mà nghe chua xót và nghèn nghẹn nơi cổ họng. Chẳng những là tình riêng, mà về tình chung anh cũng luôn mang trong lòng của mình một tình yêu to lớn. Đó là “Tình yêu tha nhân” vô bờ bến:

“Tiếng hát rong trong lòng phố vắng
Lời tình buồn sâu lắng nỉ non
Thương em tuổi vẫn còn son
Cưu mang tiếng hát héo mòn dung nhan.”

Những giọt nước mắt cứ mãi luôn chực chờ để rơi ra cho những mảnh đời bất hạnh. Chúng ta đã hoàn toàn bị chinh phục trước một bức họa mà chính anh là một họa sĩ giỏi. “Lòng phố vắng/ Lời tình buồn nỉ non”. Những nét cọ cứ như xoáy vào trái tim của chúng ta. Nó giống như một trận đại hồng thủy vậy. “Thương em tuổi vẫn còn son/ Cưu mang tiếng hát héo mòn dung nhan”. Chao ôi, không còn gì để chối cải cho cái sự thật buồn thảm mà kiếp con người phải đang gánh chịu mặc dù tuổi đời của mình còn quá nhỏ. “Ăn chưa no lo chưa tới.” Quả thật đáng thương và tội nghiệp. Tình yêu đôi lứa và tình yêu nhân loại trong anh đã đầy đủ. Đây quả là một điều đáng quý.

Mong rằng một ngày không xa nữa anh sẽ càng cho ra đời nhiều tác phẩm nghệ thuật đặc sắc hơn!

Nhà phê bình Văn học
HÀN QUỐC SINH
NỮ SĨ HẰNG NGÔ - MƯỢT MÀ NHỮNG VẦN THƠ
Tác giả: Hàn Quốc Sinh

Thu sang vàng óng dáng kiều
Hồng môi thiếu nữ thêm nhiều ước mơ
Mượt mà những áng tình thơ
Viết câu lục bát ngẩn ngơ gọi mời

Tình trần tha thiết muôn lời
Tặng nhau những đóa hoa đời thơm hương
Chiều rơi giọt nắng vấn vương
Đậu bờ vai nhỏ ghé thương môi hồng

Trăm năm giấc mộng vợ chồng
Ngàn năm sau lại càng nồng bên nhau.
(Thu sang...)

JULY 12/17

Nói đến Nữ sĩ Hằng Ngô chúng ta sẽ nhớ đến chị bởi có rất nhiều thơ tình của chị đã được không ít nhạc sĩ đồng cảm và phổ thành ca khúc rất hay và sâu lắng. Nhìn chung nhạc sĩ phổ từ thơ chị nhiều nhất là nhạc sĩ Giao Tiên. Chất trữ tình trong thơ cũng như nhạc đều du dương, nó đã nhẹ nhàng len lỏi đến tâm hồn của giới mộ điệu trong và ngoài nước.

Khi đọc thơ chị chúng ta không khỏi chạnh lòng về một cái gì đó nó như nửa gần, nửa xa. Ai cũng biết mùa thu nhưng mỗi người đều có cho riêng mình một cõi “Thu” không ai giống mình và mình cũng chẳng trùng lắp ai. “Thu sang vàng óng dáng kiều/ Hồng môi thiếu nữ thêm nhiều ước mơ”. Cái nữ tính thật dịu dàng và yêu kiều trong ngôn ngữ thơ của chị có thể đã làm rung động không ít những trái tim đa cảm của các đấng tu mi nam tử. Sự yểu điệu thục nữ đó đến như những vũ khúc trong tâm hồn. Mới đọc qua thì chúng ta chưa có thể cảm hết ý tác giả nhưng sau vài lần đọc và nghiền ngẫm thì mới thấy được cái chân tình và mượt mà từng câu, từng con chữ nó như múa hát tạo nên một sự ấm áp và ngọt dịu mà tác giả đã có ý gửi gắm vào đó.

Rồi đến:
“ Mượt mà những áng tình thơ/ Viết câu lục bát ngẩn ngơ gọi mời”. Quả không thể nào hờ hững và chối bỏ một bức tranh hữu tình như thế này được. Thế giới xung quanh đã luôn ưu ái cho con người cứ mỗi ngày đều có thể xem miễn phí những bức tranh sinh động trong cuộc sống hơn. Làm sao mà chúng ta có thể vô tình cho được! “Tình trần tha thiết muôn lời/ Tặng nhau những đoá hoa đời thơm hương". Cứ từ từ, cứ nhẹ nhàng mà sâu lắng chị đã thật khéo léo đưa cảnh và tình hoà làm một khiến cho trái tim của chúng ta cứ thổn thức rồi lại thổn thức.

Đập nhịp nhàng theo thực tại, ôi, một làn hương Thu của chị hay của thơ? Riêng tôi, tôi tin chắc một điều rằng: “Đây là mùa thu của tâm hồn chị”. Lại nữa: “Chiều rơi giọt nắng vấn vương/ Đậu bờ vai nhỏ ghé thương môi hồng”. Khi mà sự hoàn hảo cứ dồn nén chặt đến độ con người ta phải thốt thành lời thì bao nhiêu lo lắng ưu tư trong cái trần ai đau luỵ này tự khắc biến mất. “Ghé thương môi hồng” cho thấy được sự ấm áp và tràn đầy hạnh phúc.

Một cuộc tình đẹp qua những nét cọ tâm hồn thật vi diệu làm sao! Chúng ta không thể dùng vài câu mà có thể diễn tả hết được. Với động từ “ghé” tuy duy chỉ có một chữ nhưng nó hàm chứa quá nhiều điều tận đáy lòng muốn thổ lộ.
Đấy, đây mới là mấu chốt của vấn đề. Một kết thúc vô cùng có hậu! “Trăm năm giấc mộng vợ chồng/ Ngàn năm sau lại càng nồng bên nhau.”

Mong rằng sẽ còn nhiều hơn nữa những câu chuyện hay, những mối tình đẹp, những bức tranh thật sinh động luôn ở cùng mỗi chúng ta từng ngày. Chúc cho chị, nữ sĩ Hằng Ngô thành công hơn trong sự nghiệp Văn học của mình.

Nhà phê bình Văn học
HÀN QUỐC SINH
CHÀNG YẾT VÀ NGƯ
Tác giả: Châu Vũ Bảo Uyên

CHÀNG YẾT VÀ NGƯ

Biển chiều nay thật êm ắng quá! Sóng từng cơn, cứ lăng tăng lợn gợn.Từng tốp sóng một, đùn nhẹ vào nhau để chạy vào bờ, tóe tan ra nhiều những hoa bọt vừa trắng, vừa trong - ve vỡn trên những chiếc thân ngọc ngà của lũ cát mịn màn ven bờ. Gió cứ thổi lên từng cơn làm tiếng sóng cứ xào xạc với nhau; lúc trầm xuống, lúc lớn hơn; lúc khoang và có lúc lại dồn dập như có ai đó đang rượt đuổi chúng; làm cho chúng cứ đua nhau chạy cho thật nhanh vào phía trong.

Ngư ngồi ở đó đã rất nhiều giờ trên một mõm đá xanh nâu. Cái mõm đá nửa thân trên cát, nửa thân khác lại chôn chân xuống nước biển. Nó chính là nhân chứng thân thiết và không bao giờ phản bội Ngư trong mọi trường hợp. Đôi chân nõn nà của Ngư vẫn ngâm yên trong lớp nước mặn. Những hoa bọt cứ đua nhau tíu tít để được chạy xổm lên đôi chân của nàng, rồi trôi tuột xuống, lùi lại hoặc ra ngoài bờ cát ngoài kia, hoặc thẩm thấu liền vào lớp cát dưới chân Ngư.

Thiên đến đã lâu. Chàng đứng yên ở đó; sau lưng tảng đá nâu. Đột nhiên chàng bước lên phía giáp ranh giữa nước và cát. Thiên đưa chân phải, đá mạnh - ngược vào cơn sóng đang dần lao tới. Hít một hơi sâu, thở ra. Thiên quay lưng bước ngược vào bờ. Chàng đi về phía tảng đá nâu, nơi Ngư vẫn đang còn ngồi đó. Thiên chùn gối, ngồi xuống một tảng đá bên cạnh Ngư.
- Có chuyện gì để kể lễ? Mắt nhìn ra biển, Thiên lên tiếng.
- Em không có gì. Ngư trả lời.
Thiên bỗng đúng phắt dậy. Nhìn thẳng vào mắt Ngư.
- Vậy thì về!
- Anh về trước đi. Ngư quả quyết.
Đưa hai tay thọt vào túi quần sau, Thiên từ từ.
- Anh không thể hình dung được là em lì đến mức này!
Ngước nhìn lên mắt Thiên, Ngư nói:
- Thì bây giờ anh biết!
Vẫn giữ thái độ trầm tĩnh, Thiên hỏi:
- Tại sao vậy? Tại sao em lại như vậy? Em vì cái gì? Nói cho anh nghe!
Ngư ngẩn đầu, hất mái tóc dài qua một bên.
- Em không có lý do.
- Nếu em cứ kiên trì như vậy, anh sẽ không thèm nói tới em nữa. Anh sẽ mặc kệ em. Em muốn làm gì thì cứ làm. Thiên rất tha thiết.
- Thì cứ kệ em đi! Ngư ương bướng.
Thiên vẫn kiên nhẫn.
- Có hay không có lý do cũng được. Nhiều hay ít. Đáng hay không đáng cũng không sao. Nhưng bây giờ thì phải về rồi. Không ngồi lại được lâu hơn nữa!
Ngư từ từ rút đôi chân lên khỏi mặt nước. Rồi tuột nhẹ xuống; rời mõm đá nâu. Cuối xuống, đưa tay cầm lên đôi dép kẹp rồi đi về phía Thiên.
Dưới ánh trăng vằng vặc, và ánh sáng lưa thưa từ mấy cây đèn vàng hắc xuống từ những căn khách sạn ven bờ biển; có hai chiếc bóng đi nghiên trên cát vô tình đè lại và lướt qua một chiếc bóng đứng sau rặng những cây dừa trên đường họ trở lại nhà.

Yết đã đứng ở đó, sau những hàng dừa, nhưng không biết từ khi nào.


************


- Cô ấy mới thiếp lại khoảng hai mươi phút thôi. Tôi đã cho uống thuốc cách đây một tiếng đồng hồ rồi. Anh cần giữ cho bệnh nhân ở những trạng thái vui vẻ. Đừng làm cho bệnh nhân xúc động mạnh, như vậy sẽ ảnh hưởng không tốt đến tâm thần của bệnh nhân.
- Cảm ơn cô rất nhiều lắm. Tôi sẽ ở lại đây hôm nay. Khi nào thì đến giờ để uống cứ thuốc kế tiếp? Yết ân cần cảm ơn y tá.
- Sẽ là tám tiếng sau, mới uống lại thuốc định thần. Tôi không trực lại hôm nay. Nhưng Diệp sẽ là người thay ca. Có điều gì cần giúp đỡ anh cứ ghé lại phòng điều dưỡng để hỏi nha. Nói rồi, cô y tá bước đi.

Bây giờ trong phòng hồi sức này chỉ còn lại Song và Yết. Song đang nằm mê mang trên giường bệnh. Nét mặt nhạt nhòa, xanh xao một cách rất yếu ớt. Làn môi mọng, hồng như hoa thường ngày đã dộp nứt, tái trắng đi. Yết bước đến gần phía đầu nằm của Song. Chàng đưa bàn tay rờ nhẹ vào tráng để thăm nhiệt. Thấy tráng của Song không có vẻ nóng sốt, nên chàng kéo chiếc ghế ngồi cạnh giường bệnh. Chàng nhìn Song nằm im thinh ở đó, lòng chìm sâu trong nhiều suy nghĩ mong lung. Chợt chàng nảy ra một ý định rồi bắt đầu thực hiện ý định của mình bằng một giọng trầm, vừa đủ nghe.

- "Thời đó cũng đã khá xa xôi. Có một Vương Quốc Hạnh Phúc nọ đang ngập chìm trong niềm vui chung với niềm vui của Đức Vua và Hoàng Hậu. Họ đang thiết đãi yến tiệc để mừng sự chào đời của cô Công Chúa Hạnh Phúc xinh đẹp. Đã có rất nhiều những quà tặng, lẫn những lời chúc tốt đẹp nhất dâng tặng đến nàng Công Chúa bé nhỏ ấy. Trong số họ, có ba cô tiên rất dịu hiền xinh đẹp từ Vương Quốc kế bên cũng bay đến thăm viếng và tặng cho Công Chúa nhiều đặt ân. Cô Tiên Thứ Nhất đến gần nôi của Công Chúa, nàng đặt vào đó chiếc đũa thần lấp lánh và nói:
- Con sẽ là một người con gái dịu hiền nhất trần đời!
Cô Tiên Thứ Hai cũng bước đến và nói;
- Lòng tốt và lương thiện là điều quý giá nhất của con người. Ta trao chúng đến con! Hãy luôn sống tốt và lương thiện với những người quanh mình!

Trong khi Cô Tiên Thứ Ba đang loay hoay tìm cây đũa thần của mình. Thì tiếng kiến vỡ được phát ra từ cánh cửa sổ bằng kiến ở phía bên trên tòa lâu đài. Mọi người trở nên nhốn nháo, rất hoảng loạn, và sợ hãi. Một mụ phù thủy trong chiếc nón vành to nhưng vẫn không thể che kín hết chiếc mũi dài nhọn hoắc như một con dao nhọn sắt bén. Con dao vô tâm này có thể đâm lấy máu của bất cứ ai đến gần nó. Mụ ta trùm lên người một chiếc áo xùm xòe màu đen vô cảm như đến từ cõi chết. Mụ phù thủy cỡi trên chiếc chổi xù xì màu xám xịt, bay sầm sập trực chỉ đến bên nôi của nàng Công Chúa nhỏ, rồi phán.
- Ta căm hận sự lãng quên, bỏ bê ta từ các người. Ta thù ghét những sự lương thiện và hạnh phúc các ngươi đang có. Ta ganh tỵ những tấm lòng tràn ngập tình yêu đẹp đẻ của các ngươi. Và lòng ta luôn hừng hực những sự tính toán, nghi hoặc đến những đối đãi lẫn những lời nói tử tế từ con người các ngươi. Cho nên hãy nghe đây loài người của Vương Quốc Hạnh Phúc - các ngươi - kể từ hôm nay tất cả các ngươi phải chết. Tòa lâu đài này sẽ chìm ngập trong hận thù, ganh tỵ, đa nghi và cái chết!
Nói dứt lời, mụ phù thủy cỡi chiếc chổi xù xì bay đi mất. Trong phút chốc, cả tòa lâu đài và Vương Quốc Hạnh Phúc đã chìm ngập trong cái chết vì lòng đố kỵ, hận thù, và đa nghi của mụ phù thủy.
Cũng vừa ngay lúc đó, Cô Tiên Thứ Ba đã tìm được chiếc đũa thần của mình. Cô bước đến bên chiếc nôi bé nhỏ của Công Chúa và truyền rằng.
- Hỡi lòng ganh tỵ, thù hằng, sự đa nghi, và cái chết - các ngươi không thể tồn tại lâu dài cho đến khi Vương Quốc Hạnh Phúc này được tìm thấy bởi một trái tim vàng. Một trái tim chứa đầy lòng bao dung, và một tình yêu chân thành thật sự!
Phán xong thì .... "
- Gì mà Thiên Thần với Quý Sứ trong giấc em đang ngủ vậy Yết. Em có phải lên ba đâu mà anh kể ba cái chuyện cố tích xưa rít đó! Song đã choàng tỉnh lại.
- Ủa, em thức rồi à! Yết vui mừng thấy rõ.
- Anh ồn như vậy thì làm sao mà em ngủ lâu cho được! Song pha chút hài hước.
- Anh có ồn hồi nào đâu. Sợ em buồn chán nên tìm cách làm em vui mà! Yết dỗ dành.
- Thôi anh hãy về làm chú rùa rút vô chăn để ngủ muộn đi! Song trêu ghẹo.
Yết đứng lên, đẩy chiếc ghế gọn vào góc phòng.
- Hồi nảy giờ ngủ yên thì không sao. Chỉ một cái tội là làm cho người ta lo lắng! Bây giờ tỉnh dậy lại mắng anh là rùa rút vô chăn! Em thiệt là quá đáng! Biết vậy hôm nay anh sẽ không nghĩ làm việc để vô ngồi ở đây!
- Có ai cần anh vô đây ngồi đâu! Song trở mình, nằm nghiêng qua một phía.
- Anh không vô, nằm đây một mình cho buồn chết hả? Yết gắt hơn.
- Không dễ chết đến vậy. Dép còn có sổ mà.
- Cái tật cứ lớn hơn cái tuổi! Nói chuyện cứ phải thọc với chọt người ta thì mới hài lòng. Nếu em nói như vậy, thì thôi - anh đi về.
- Đi đi! Đi về đi! Song nói nhưng không nhìn theo Yết.
- Không tiếc nha.
- Không ai dư hơi. Về làm chú rùa rút đầu đi!
- Cái con bé này! Chưa khỏe hẳn mà đã hung hăng như vậy rồi à! Ai là rùa rút đầu?
- Về nhìn vô gương, tự hỏi đi! Em mệt lắm rồi, để cho em nghĩ! Song nói với giọng lẫy.
- Em thiệt tình là muốn anh đi về?
- Em không biết nói dối đâu Yết!
- Bản thân mình thì như con kén lột vỏ mà cứ hay lo chuyện bao đồng. Yết tỏ vẻ bực mình.
- hơ hơ hơ hơ hơ .... em không còn hơi để chạy bao cái đồng bự! Song gượng cười.
- Mai mốt anh sẽ biến mất để em không nhìn thấy nữa. Và sẽ đứng từ xa để ru cho em ngủ ngon. Yết như hờn dỗi.
- hơ hơ hơ hơ .... thiệt không đó Yết! Đứng kế một bên đây ru mà em còn ngủ chưa được ngon; huống hồ là đứng ru từ xa! Anh thiệt là mơ quá hồn!
- Nói vậy thì thôi nằm đó với y tá đi nha. Không có ai vui khi nhìn thấy anh. Thì thôi anh sẽ đi. Anh về làm việc của anh đây.
- Đi đi. Hãy sống theo cách riêng của mình Yết à! Anh là một tảng băng lạnh lùng!

Song vẫn nằm ở tư thế nghiêng người. Và vẫn không quay nhìn theo Yết đang bước dần ra khỏi cửa phòng.


*************


- Thiên! Thiên ơi! Anh có ở trong đó không?
Song bước sòng sọc như vừa đi vừa chạy, bước vào nhà rồi dừng lại ở căn phòng trước mặt. Song đưa hai tay đẩy mạnh để mở toan cánh cửa đang được kép hờ. Cánh cửa được mở ra. Song bước vào.
- Anh đang làm gì mà chết dí ở trong đây vậy? Song cự nự.
- Sao em không gõ cửa! Thiên đang ngồi quay lưng lại với Song. Chàng đang loay hoay vẽ một bức chân dung gì đó trên giá, dựng bên trên một chiếc bàn được kê gọn trong một góc phòng.
- Gõ làm gì? Cửa kép hờ mà! Song nhấn mạnh.
- Em có hiểu lịch sự không! Để anh còn biết có người đến. Vẫn không quay lại, Thiên trả lời.
- Anh biết người đến chắc chắn không ai khác em rồi, gõ làm gì nữa! Ba cái màu mè, khách sáo đó không có mặt của em! Song thẳng thắng.
Ngưng cọ, Thiên lấy miếng vải thấm dầu, chùi sạch đầu cọ; rồi quay lại nhìn Song.
- Con bé này ngộ nha. Biết tánh anh không thích sổ sàng, đường đột mà!
- Vậy rồi sao!
- Mà còn làm vậy. Là không tôn trọng anh đó. Thiên hơi bực bội.
- Anh tưởng chỉ có một mình anh biết bực bội thôi hả!
Ngưng lại một lát để lấy hơi, Song nói tiếp.
- Em còn bực mình gấp mấy lần anh luôn đây nè. Ở đó mà tôn trọng với không tôn trọng làm gì cho mệt xác.
Thiên đứng lên, ra khỏi ghế.
- Gì mà bực mình hơn anh chứ. Sao biết là bực mình nhiều hơn anh? Mà em qua đây có một mình thôi hả?
- Em đi một mình thôi. Anh chờ ai? Muốn nhìn thấy ai? Mà sao lại không biết! Bụng dạ tâm tư của anh dễ hiểu như cọng rau muống vậy đó; chứ không phải lúc này lúc khác; lúc rất nồng nàn lúc lại nhạt lạnh như băng đá; vô cùng phức tạp và khó hiểu của chú rùa trong chăn kia! Song bực tức một cách thách thức.
Thiên đứng lại gần chiếc bàn, chống một tay trái lên đó. Nhìn về phía Song.
- Chuyện gì vậy? Chạy rầm rầm vô nhà anh, không nói ất giáp chi hết, la mắng tùm lum vậy?
Song phùng mang trợn mắt, nói lớn tiếng hơn.
- Em! Em thật tức chết được! Tức một cách không thể nào còn chịu đựng cái lão chú rùa chết tiệt kia nữa !
Giữ cho mình một phong cách từ tốn, Thiên nói.
-Từ nảy giờ, anh vẫn chưa nghe em kể chuyện gì làm cho em phải bực mình với anh như vậy!
- Em không hề tức bực vì anh! Em tức lão chú ....
- chú rùa rút đầu vào chăn ngủ muộn chứ gì?
- Ừa. Anh giỏi đó!
- Có giỏi gì đâu! Nghe em nói đến cái lão chú rùa rút đầu đó cả trăm lần rồi. Mà anh nói thiệt, anh rất ghét lắm mẫu người đàn ông khi đã tạo cho người khác yêu thích mình rồi, thì lại rút tay, sau đó lại nói xin lỗi - là chúng mình không thể! Rất vô trách nhiệm! Rất nhẫn tâm! Rất ác với con bé đó!
Thiên nói xong, vuột bước ra khỏi cửa phòng.
- Ủa Ngư! Em tới hồi nào rồi mà không bước vô?
Thiên hơi lúng túng khi gặp được Ngư đang đứng rủ lại bên ngoài cửa phòng.
- Em đến cũng được một lúc rồi! Nghe anh và Song bực tức người đàn ông kia dùm em! Anh và Song đã nghĩ và nói không đúng về Yết rồi. Yết không phải dạng đàn ông như anh và Song nghĩ! Em hiểu được bụng dạ của Yết!
Như tên bay, Song bước từ trong phòng ra ngoài.
- Cũng may! Cũng may mà Ngư hiểu được bụng dạ của anh ấy! Ngư làm cho người ta ở quanh Ngư phát bực bội dùm cho Ngư hết rồi đây! Tụi này điên lên dùm Ngư hết rồi đây!
Thiên bước đến, nhẹ nhàng nâng cằm của Ngư ngước lên, rồi nói
- Có một điều mà anh muốn Ngư phải luôn ghi nhớ - đó là đừng bao giờ quỵ lụy bất cứ một ai. Dù người đó là bất cứ ai, dù hắn ta chính là anh, hay là một người bạn con gái, hay là một gã đàn ông nào khác. Ngư có nghe rõ lời của anh nói không?
Ngư nhìn vào mắt Thiên, rồi gật gật cái đầu.
- Nhưng! Ngưng lại một lúc như nén lại dòng lệ chực tuông ra, Ngư nói tiếp - Em không thể làm được điều anh vừa nói!
- Em! Em! Em .... thật là ngốc đến chết người! Vậy thì thôi, để cho người ta giết tim em chết luôn đi! Thiên bức xúc, buông một cái đấm vào vách tường trước mặt.
- Thôi đi Ngư. Hãy buông tay! Đã không là gì của nhau, thì chẳng bao giờ nợ lấy đời nhau. Hãy quên anh ấy đi! Quên như chưa từng được quen biết. Song tiếp lời Thiên. Chậm lại để nhìn lấy cái tướng đang rũ buồn, mắt cứ nhìn xa xăm, xuống nền đất của Ngư. Đặt một bàn tay ấm áp lên vai trái của Ngư. Rồi Song ôn tồn, nhẹ giọng lại, nói tiếp.
- Nghe nè, cuộc vui nào rồi cũng phải kết thúc. Dù bàn tiệc đó đã để lại nhiều những thức ăn, nước uống ngon, lẫn những trận cười gòn tan, và những câu chuyện thật thú vị. Và đã để lại nhiều ấn tượng lẫn những cảm xúc trào dâng chất ngất. Nhưng cuối cùng thì đêm cũng phải khuya, và tiệc cũng phải tàn, khách tao nhân ăn ý và rất hợp nhau cũng phải tan hàng và ra về; Ngư có hiểu chưa!

Ngư đưa đôi mắt ứa đầy lệ nhìn vào đôi mắt sâu, thật rất buồn của Song.

**************

Vẫn như mỗi chiều, Yết chuẩn bị mọi thứ để đi gym. Chàng vào xe, và cho xe chạy. Yết chạy một đổi mới chợt nhận ra là mình đã chạy lạc đường. Thay vì chạy xe đến phòng tập, chàng bây giờ lại dừng xe trước bãi xe để ra biển. Yết tần ngần đôi phút, rồi chàng quyết định xuống xe và đi về hướng biển.

Biển chiều nay nhiều gió, sóng liên tục và cao. Chàng nghe trong khí thở, nặng mát của hơi nước từ những cơn dầm trong mấy ngày hôm trước. Chàng bước chậm, và từ tốn đến gần tảng đá nâu. Yết chợt nghe có tiếng Ngư hỏi,
- Anh đến rồi à!
Yết nghe lòng chợt run lên, chàng đáp
- Anh đang ở đây!
Rồi lại nghe tiếng Ngư như chợt nghẹn,
- Biết em đang ở đây à!
- Ngoài chỗ này, thì chẳng còn chỗ nào khác để em thích đến! Ngưng lại một lát, rồi Yết nói tiếp - Hôm nay gió lớn mà em lại mặc mong manh vậy!
- Em đã mặc áo ấm rồi mà! Nhưng ... Không có anh ở bên, em thật chẳng còn thiết tha đến bất cứ điều gì trên đời này nữa.
- Anh vẫn đang ở đây! Nhẹ giọng hơn, Yết hỏi - Em có khỏe không?
Như hơi nhìn xuống, Ngư đáp:
- Em ... Dạ không! Anh thì sao? Anh có khỏe không?
Yết chợt thấy lúng túng khi nghe Ngư hỏi điều này. Chàng đưa tay phải gãi đầu rồi nói.
- Anh vẫn vậy. Vẫn bình thường thôi. Anh vẫn khỏe! Anh ... không sao, em đừng bận tâm ...
- Tình trạng bệnh của anh sao rồi? Anh có thấy khá hơn chút nào không?
Nhìn vào mắt của Ngư, chàng nhận ra là chàng như không thể che dấu được điều gì trong ánh mắt dịu dàng ấy.
- Anh vẫn được bác sĩ theo dõi và chữa trị. Em hay bị lạnh, những lúc trời trở gió thì đừng mặc mong manh quá! Không có anh ở bên, nhưng em phải luôn tự sống cho tốt, như vẫn còn anh chăm sóc cho, em hiểu không!
- Em không .... muốn vậy ... đừng đứng từ xa mà chăm cho em. Em muốn có anh bên cạnh ... Muốn được ngã vào lòng của anh. Em muốn được vòng tay của anh ôm em thật chặt lại. Em muốn ... được nghe hơi thở của anh. Và muốn nghe những nhịp tim đang dồn đập trên ngực của anh. Em ... muốn ...
Yết chợt nhắm nghiền đôi mắt lại. Nói trong giọng nói của hơi thở được giữ lại.
- Anh nhớ hương tóc ... của em. Và ... nhớ đôi bàn tay ... nhỏ bé của em, nhớ làng hơi thở rất ấm của em!

Vừa nói, Yết vừa đưa tay để vuốt mái tóc dài cho Ngư. Nhưng rồi chàng chợt dừng tay lại vì cảm giác tay của chàng chỉ quơ quào trong không khí mà chẳng chạm được vào tóc của Ngư. Chàng bàng hoàng, chợt nhận ra là mình đang như hoa mắt trong hư ảo. Chàng nhìn kỹ vào tảng đá nâu lần nữa thì chẳng thấy ai ngồi ở đó cả. Chàng chỉ nhìn thấy những cơn sóng dồn lên, rồi lại bị tuột ngược xuống bãi cát trắng dưới chân. Lòng chàng chợt dâng lên niềm hụt hẫng nghẹn lại nơi cổ họng. Chàng rút tay lại. Chàng không muốn ở lại đó thêm phút nào nữa. Chàng đi thật nhanh ngược về lại bãi xe.

Yết vào xe, chàng ngồi thừ trong suy nghĩ. Chàng cho xe chạy đi về hướng của phòng gym. Chàng đem túi đựng quần áo vào theo. Thay quần áo xong, chàng khóa locker lại. Rồi đi vào phòng shower. Yết đứng yên ở đó dưới dòng chảy của những làn mưa nhân tạo. Dòng nước cứ tuông chảy ròng trên mặt, trên tóc rồi chạy dài xuống cổ, đôi bờ vai. Chàng đưa tay chùi đi những dòng nước đang chạy trên ngực trần của mình. Yết chợt dừng bàn lại trên đồi thịt vạm vỡ ấy, rồi chợt bật khóc. Chàng nhớ đến hương tóc quen thuộc ngày nào của Ngư. Mái tóc dài vẫn thường tựa đầu của nàng vào đôi ngực vạm vỡ ấy!
Yết bất chợt tắc nước. Lấy chiếc khăn lớn quấn quanh người rồi đi thẳng ra hồ bơi. Một ý nghĩ điên rồ chợt loé lên trong suy nghĩ. Yết tìm đến chiếc cầu nhảy có độ cao, cao nhất, rồi chàng bước từng bước từ tốn lên đó. Đứng cao trên chiếc ván để chuẩn bị nhảy xuống hồ. Chàng ngửa đầu ra sau đôi lần, hít thật sâu vài hồi. Yết nhắm nghiền đôi mắt lại, chàng thả lỏng tất cả từ những suy nghĩ đến cơ bắp. Chàng nhóm chân, rồi cong gối lại, nghiên người về phía trước, rồi bún mạnh cho toàn thân rơi nhanh xuống hồ. Chàng cứ thả lỏng và không buồn cử động tay chân để quạt nước. Chàng trôi theo dòng nước chảy.
Cả phòng bơi chợt nháo nhào hẳn lên vì tiếng còi báo của nhân viên trực vệ hồ bơi. Một chốc lâu, người ta nhìn thấy chàng trực vệ đưa lên hành lang an toàn một người đàn ông, rồi anh ta bắt đầu làm hô hấp trợ thở cho người đàn ông đang nằm đó. Trong số những người quanh hồ bơi, có tiếng một đôi người nói với nhau.
- Người đó không phải là Yết hay sao?
- Anh ta ngày thường hay tập ở bên thể hình mà, sao hôm nay lại lọt qua đây?
- Mọi thường thấy anh ấy bơi rất khá, sao lại bị đuối như vậy!
Đám đông phải giản ra hai bên hành lang để nhường đường cho đội dịch vụ cứu người. Họ thấy có hai chàng trai trong đồng phục màu xanh đậm và đeo thẻ nhân viên sơ cứu đang đưa chiếc băng ca vội vàng vào chiếc xe cứu thương vẫn còn đang quay đèn đứng chờ bên ngoài phòng gym. Sau khi đẩy chiếc băng ca trên đó có người đàn ông tên Yết nằm nhắm đôi mắt thêm thiếp vào xe. Một nhân viên của đội sơ cứu kéo chiếc cửa và đóng cửa xe cấp cứu lại. Trong tiếng kêu vang và ánh sáng quay liên hồi của chiếc đèn trên nóc chiếc xe cấp cứu, mọi người dạt qua bên lề để nhường đường cho xe cứu thương chạy đi bệnh viện, vào phòng cấp cứu.
Người ta vẫn còn nghe vài người ở phòng gym thắc mắc.
- Anh ấy bơi giỏi lắm mà!
- Sao ra đến nổi này!
- Sao lại bị ngộp!
- Bị đuối à? Thật là chuyện lạ!

*************

... "cuộc sống với muôn vàng những điều khó khăn. Con người lại quá nhỏ bé trong bộn bề của những trách nhiệm nhưng luôn bị ràng buộc bởi những quy định và nguyên tắc một cách máy móc. Nguyên tắc, và quy cũ vốn để ràng buộc con người vào những thể chế và lề luật để giữ khuôn khổ cho những mẫu mực làm người và tạo khuôn mẫu của xã hội. Nhưng nếu quá rập khuôn và không có sự uyển chuyển để thấu hiểu ... luật lệ ấy đã giết chết bao nhiêu đời con người rồi!
.... và anh thương, nếu như em được thêm một lần nữa có được anh, em sẽ giữ thật chắc anh! Sẽ không bao giờ làm mất anh nữa!" ...

Trên đường lái xe về nhà, Ngư cứ miên man với bao nhiêu những suy nghĩ lãng đãng ở trong đầu! Vừa dừng xe trước sân nhà, điện thoại của Ngư cũng chợt ren lên. Ngư thò tay rút chiếc điện thoại từ bóp tay ra và trả lời.
- Ngư đây!
Ở đầu dây bên kia, tiếng của Song rõ ràng, vanh vảnh.
- Về chưa? Song ghé qua nha?
- Vừa về tới. Ừa ghé qua đây!
Nói dứt lời, Ngư mở cửa xuống xe. Rồi mở cửa đi vào nhà. Cất bóp lên tủ, Ngư mở tủ lạnh lấy ra ít rau để chuẩn bị cho buổi cơm tối. Đoạn một lúc, Song cũng bấm chuông cửa qua tới. Ngư vừa mở cánh cửa ra, Song liền hỏi.
- Có gì uống không?
Ngư như hiểu ý, liền trả lời,
- Đỏ nha!
Song khoác tay, lắc đầu,
- Không đỏ. Nhẹ lắm! Cognac, có không?
- Làm gì có! Ngư đâu thích uống loại đó đâu!
- Vậy thì đỏ!
Vừa nói, Song vừa đi đến tủ cất rượu lấy ra chai rượu vang đỏ, và hai cái ly. Song đem đến bàn ăn, mở nắp chai và rót.
- Ngư uống không?
- Không, Song cứ uống đi!
Ngư lặt xong rau, để vào thau và rửa.
- Sao lại uống giờ này hả Song! Không để tối uống?
Song vừa uống vào một ngụm, thò tay vào bóp lấy ra một trang giấy được gấp lại làm hai; rồi đưa về phía Ngư.
- Đọc đi!
Ngư quay về phía Song. Tầng ngần nhìn nàng, rồi hỏi.
- Gì vậy?
- Đọc đi rồi biết! Song khẳng định.
- Nhưng ... là gì mới được? Ngư nghi hoặc.
- Thư! Song trả lời.
Ngư rủ tay, rồi lau khô vào khăn. Vừa định bước về phía Song đang ngồi, chợt Ngư dừng lại.
- Thư của Yết? Ngư hỏi.
- Ừ! Song uống thêm một ngụm rượu nữa.
- Viết cho Song mà. Ngư đọc làm gì! Ngư trả lời tỉnh táo.
- Đọc để biết! Hiểu chưa! Song lè nhè.
- Thôi! Không đọc! Yết viết cho Song thì Song đọc đi!
Song để mẫu thư xuống bàn, ngẩn lên nhìn Ngư.
- Nói cho nghe nè, từ nay đừng bao giờ hy vọng gì đến Yết nữa, hiểu chưa!
Ngư ngưng tay, mắt ướm lệ nhìn Song.
- Sao vậy?
- Yết nói từ nay làm ơn đừng bao giờ nhắc đến tên của anh ấy trước mặt Ngư nữa! Đừng bao giờ nói đến anh ấy nữa! Anh ấy không muốn Ngư nói đến tên của anh ấy! Anh ấy ...
- Nhưng ... Song nói không đúng! Yết không nói vậy! Ngư hoài nghi.
- Ở đây nè Ngư. Đọc đi thì sẽ biết! Song nhấn mạnh.
- Ngư không tin! Ngư hiểu được lòng anh ấy! Và Ngư rất có lông tin vào anh! Anh là người đàn ông chung tình. Lòng rất tràn đầy những ưu tư, lo lắng; và luôn chất chứa nhiều yêu thương; nhưng anh cứ dấu đi cảm xúc của mình! Anh không để Ngư một mình trong tình trạng buồn khổ tột cùng như vậy! Anh rất đáng yêu! Và anh là để yêu, vì Ngư tin anh đã ...

Ngư chợt muốn òa khóc khi nói đến điều này!

Nàng Ngư để mặc cho nàng Song ngồi một mình trong nhà. Một mình, nàng Ngư đi về phía biển. Ngư đi đến điểm quen thuộc của mình - tảng đá nâu. Những lúc vui cũng như những khi buồn, nàng vẫn thích lang thang trên cát, men theo bờ biển; hoặc ngồi hằng giờ trên tảng đá nâu để ngắm biển.

Ngồi yên trong cơn gió lộng, biển chiều nay cứ thét gào, cào cấu lên bãi cát trắng mịn dưới chân Ngư. Từng cơn sóng lại cứ nhao nhao cao vút lên rồi cuộn gập lại, như cố lôi kéo cho được những gì nó có có thể quơ quào khi rơi xuống cát. Trong thinh lặng, Ngư nhớ đến Yết càng nhiều hơn. Bao nhiêu suy nghĩ trong trí, chỉ nghĩ đến chàng. Và điều duy nhất Ngư luôn ước ao đó là "nếu như em được thêm một lần nữa có anh bên cạnh mình, em sẽ không bao giờ để mất đi anh!".
Trong phút chốc, Ngư chợt rút đôi chân trần thon gầy của nàng lên khỏi mặt nước biển. Nàng nhỏm người rồi đứng lên trên mõm đá nâu. Đứng được một lúc, nàng nhắm đôi mắt lại, và hít thật sâu cái mùi biển! Nàng nhớ Yết!

Đôi bàn chân nõn nà của Ngư được dội rửa liên tục bởi những cơn sóng dồn lên, rồi tuột xuống. Những đợt sóng dâng trào, cứ tấn công liên tục vào mõm đá nâu. Đột ngột, chân nàng trượt xuống. Trong bất giác, Ngư vừa thoáng chợt nhận ra mình bị mất thăng bằng, như sắp té nhào xuống nền cát trắng, thì nàng như kịp cảm nhận được phần người từ lưng eo, được giữ lại trong lòng đôi bàn tay nào đó. Ngư mở choàng mắt để nhìn tìm, nàng vừa chạm đến một tia nhìn rất trìu mến từ đôi mắt đối diện.Tai nàng chợt ấm áp khi nghe được giọng nói rất quen thuộc.
- Có anh đang ở đây!
Giọng nói của Ngư chợt nghẹn lại, đủ làn hơi mỏng để thều thào.
- Anh đến rồi à!
- Anh lúc nào cũng vẫn đang còn ở đây! Yết dúi đầu của chàng sát vào đầu của Ngư và ngọt ngào nói khẽ vào tai nàng!

Ngư nhắm nghiền đôi mắt lại, như tận hưởng được cái mùi hương mát dịu được lộng trong gió, thổi vào từ biển. Nàng buông đôi tay xuống, rồi đưa hai cánh tay của mình ôm choàng lấy cổ của chàng Yết. Toàn thân của nàng được nằm gọn gàng trên lòng tay rắn chắc của chàng Yết! Đâu đó bên ngực trái của mình, nàng Ngư nghe nhịp tim mình rộn ràng hoà vào nhịp đậm dồn dập, liên hồi từ nhịp tim được phát ra bên đồi ngực của chàng Yết đang ép sát vào ngực nàng. Toàn thân nàng cứ như run lên từng cơn, một cách lâng lâng đến kỳ lạ, cứ như là lần đầu tiên được chàng Yết ôm trọn thân nàng sát vào lòng chàng. Chàng Yết như được ngửi lại những làn hơi thở rất thơm từ những làn hơi mỏng manh của nàng Ngư.

Biển chiều nay cứ như dỗi hờn, giận dữ. Từng cơn sóng cứ liên tục theo nhau dồn ồ ạt vào bờ. Những cơn sóng cứ cao ngun ngút, như muốn quơ quào, lôi kéo tất cả những gì nó có thể chạm đến khi nó cuộn gập lại, rồi rơi xuống nền cát trắng.

Sáng sớm hôm sau, những ngư dân dậy sớm để lưới cá, họ chỉ nhìn thấy vỏn vẹn tảng đá nâu đúng đó chơ vơ, bên cạnh đôi dép kẹp nhỏ bé của nàng Ngư, còn lưu lại trên bãi cát trắng mịn màn.

Châu Vũ Bảo Uyên
Hàn Mặc Tử với bài thơ
Tác giả: Vương Thanh

Ngàn xưa tới nay, thi nhân đều yêu trăng . Lý Bạch với “cử bôi yêu minh nguyệt / đối ảnh thành tam nhân’, Tô Đông PHa với “Minh nguyệt kỷ thời hữu, bả tửu vấn thanh thiên”, Nguyễn Du với “vầng trăng ai xẻ làm đôi / nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường” , Vũ Hoàng Chương với “trăng của nhà ai, trăng một phương”, Hàn Mặc Tử với “Thuyên ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay”, Tuệ-Nga với “Từ dòng sông trăng đó / Hoa ngủ quên kiếp sầu / Từ dòng sông trăng đó, Đá trầm lời biển dâu …”

Ánh trăng rất Đẹp. Hào quang xung quanh những vị bồ tát, đức Phật, thiên thần trong những bức tượng và tranh ảnh đều như là dùng ánh trăng. Ánh trăng dịu dàng, soi sáng đêm đen, sưởi ấm lòng người, còn đuợc ví với lòng từ mẫu . Còn nếu nói đến chị Hằng, thì lại là một tiên tử được chiêm ngưỡng từ ngàn xa.

Hàn Mặc Tử rất yêu trăng. Có nhiều bài thơ về trăng, và bài tản văn “Chơi giữa mùa trăng” rât tuyệt vời cùng với những vần thơ kiệt tác như “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kip tối nay”.Nhưng Hàn Mặc Tử có một bài thơ tựa là “Bẽn Lẽn” . Bài thơ này thiệt là làm cho mình khó nói lời hay cho đuợc. viêt vài lời nhân xét bài thơ “Bẽn Lễn” này .

Bẽn lẽn (thơ Hàn Mặc Tử)
(1) Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi.

(5) Trong khóm vi vu rào rạt mãi
(6) Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
(7) Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
(8) Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.

(9) Vô tình để gió hôn lên má
(10) Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm
(11) Em sợ lang quân em biết được
(12) Nghi ngờ tới cái tiết trinh em.

Cụm từ “sóng soải” trong câu đầu tiên nghe đã không thanh. Câu thứ 7 và thứ 8 thiệt là thô tục. Còn câu thứ 12 người thiếu nữ nói chuyện dùng từ cũng quá trắng trợn, không có chút vẻ bẽn lẽn nào . Bài thơ này knông chút phù hợp với tựa đề của bài thơ là "Bẽn Lẽn". mà phải nói là ngược lại. Vầng trăng đẹp đẽ, cao quý , ánh sáng dịu dàng biết bao, thi sĩ HMT lại tả thành như vậy.

Nhưng vẫn có một số người khen ngợi bài thơ này lên mây . Có phải là vì danh tiếng của nhà thơ không. Thiệt ra thì , danh tiếng của những nhà thơ chỉ đuợc tạo dựng từ một số bài , và sau đó những bài khác đều đuợc người khác sưu tầm bất kể là thơ hay hoặc là thơ xoàng. Sự hay, dở của một bài thơ nếu như chỉ dựa vào danh tiếng của thi sĩ, thì cũng giống như chỉ xem nhãn hiệu mà không biêt dùng đến những tiêu chuẩn để nhân xet, đánh giá món hàng. Cái này gọi là tánh a dua theo đám đông, không có sử dụng đến đầu óc và cảm nhân của chính mình.

Hoặc cũng có thể là có những nguời thích loai thơ thô như thế. Nhưng vầng trăng, nàng trăng bị tả như thế, thiệt khiến mình haha có chút bất mãn, nên viêt bài bình luận này .

vương-thanh
29.09.2017
Image may contain: sky, tree, night, outdoor and nature
Confiding in the Moon
Tác giả: Vương Thanh
Englsh translation of "Tâm Sự Với Trăng" by vương-thanh

Some day, I will go on a far journey to find an enchanted land, a place of clear blue sky and gentle clouds floating by, to spend the rest of my days in Nature’s tranquility and harmony. By the silver falls, a wine cup in hand, looking at the moon’s reflection in the water, feeling a little saddened for the human fate and its unfulfilled dreams ..

Isn’t Life like a passing trail of cloud ? How come my heart stilled filled with the dust of human desires. For thousands of years, the white clouds wander and keep on wanrdering … Raising the wine cup to the Moon Lady, there are just us three, me, mine shadow and thee, the Moon Lady . Recollect the ancient times when Li Bai , inebriated with wine, sung this verse line “With wine and thee to forget the thousand-years-old melancholy . Under the misty moonlight, feeling my heartstrings pulled with revelation and sadness . Is this moon still the same moon of thousand years ago, the moon of Li Bai, Nguyễn Du, and Su Shi ?

“Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn” : “Reading poetry in the night, one then understood how cold the moonlight can be” . Moonlight some time is warm, other times it can be very cold ! Is it because the Lady Moon also feels for the loneliness of the life of a human being – infinitesimally small like a speck of dust in this earthly world, lonely like a wandering star in the vast universe, ephemeral like a flower blooming in the morning, fading by night, in the no-beginning, no-ending stream of Time . “Triêu như thanh ti, mộ thành tuyết” : “In the morning (hair) like green silk, by evening, becomes snow” (1) Youth is like the shadow of a galloping horse passing by the door, never to return . Of the human fate: in life: full of partings , upon death: a forever goodbye . So much pain and sadness . In this earthly world is full of upside-down craziness , who goes in searching of the meaning of Life.

Long night, thoughts float in the waves of semi-consciousness, together with the wind and clouds, moving toward the distant sky horizon . A Dream Realm, from some ancient times, a gentle music stream of “High Mountain, Flowing Water” still reverberates in my soul, an enchanting voice singing under the ancient moonlight, crystalline clear , like Music from the Heaven , and not that of the Human Realm ….

___________-____________
Tâm Sự Với Trăng

Rồi một ngày nào đó ta lại thả bước lãng du, đi tìm một cõi đào nguyên, một khoảng trời xanh mây trắng bồng bềnh, tiêu dao ngày tháng . Bên dòng thác nước, nâng chén rượu nồng, ngắm vầng thủy nguyệt, chút gì thương cảm cho kiếp nhân sinh - những mộng ước không thành ...

Đời có là như thoáng phù vân, sao lòng ta còn nhuốm bụi hồng trần ! Ngàn xưa mây trắng vẫn lang thang, lang thang ... Nâng chén mời nàng Trăng, "đối ảnh thành tam nhân" .... Nhớ xưa Trích Tiên túy tửu cuồng ca, “dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu” … Dưới ánh trăng ngà, chợt nghe cảm khái . Vầng trăng nay có phải cũng là vầng trăng của ngàn xưa, của Lý Bạch, của Nguyễn Du, Tô Đông Pha ?

"Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn" ... Ánh trăng có khi nồng ấm, có khi lạnh lẽo biết là bao !... Có phải chăng nàng Nguyệt cũng thương cảm cho nỗi cô đơn của một kiếp người . Nhỏ nhoi như hạt bụi nổi trôi nơi cõi hồng trần, lẻ loi như một vì tinh tú phiêu bạt trong vũ trụ bao la, phù du như một đóa hoa sớm nở tối tàn trong dòòng thời gian vô thủy, vô chung. “Triêu như thanh ti, mộ thành tuyết” . Tuổi thanh xuân như bóng câu qua cửa, có bao giờ trở lại . Một kiếp người : sinh ly tử biệt, bao nỗi xót xa . Giữa dòng đời điên đảo, ai đi tìm ý nghĩa của nhân sinh….

Đêm dài, suy tư lan man thả trôi theo giòng sóng tư duy bềnh bồng, phiêu lãng cùng mây gió tới cuối tận chân trời ... Một Cõi Mơ, từ thuở hồng hoang nào đó, một giòng suối nhạc cao sơn lưu thủy còn mãi ngân vang trong hồn, một tiếng hát dưới vầng trăng hoang sơ, nguyên thủy, trong veo như dòng suối mát, như tiếng nhạc vọng từ cung trời, há phải là của cõi nhân gian ...

vuongthanh - 04/29/2015
Tiếng ca du dương thủ thỉ ru hồn thính giả vào không gian lãng mạn vô thư
Tác giả: Phu Nhi
Chỉ có những ai mang tâm hồn nồng nàn vị tha , sâu sắc , giàu trải nghiệm cuộc sống . Đã từng trải qua những biến cố trong cuộc đời mất mát , tổn thương, hay rạn vỡ tình cảm mới cảm nhận và thấu hết chất tình , chất lãng mạn và nhân văn toát lên trong từng tuyệt phẩm . Nhạc Nguyễn Tâm Hàn là dòng nhạc trữ tình lãng mạn thanh tao và sang trọng. Nội dung và nghệ thuât cô đọng và hoàn hảo tới mức tuyệt vời . Nhạc Nguyễn Tâm Hàn chạm đến nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn. Nghe như ai đó đang tâm sự với mình , như mình đang cởi trói những trắc ẩn trong lòng cùng âm nhạc. Ca từ nộc mạc gần gũi và trong sáng đi sâu diễn tả cuộc sống nội tâm , những điều riêng tư thầm kín trong mỗi cá thể nhưng xảy ra hầu khắp trong nhân loại . Thế nên người đã thưởbg thức và yêu mến nhạc Nguyễn Tâm Hàn sẽ khó mà rời bỏ nhưng lại rất ngại chia sẻ với cộng đồng , điều đó dễ mang đến sự ngộ nhận đó là yếu tố bất lợi để âm nhạc Nguyễn Tâm Hàn lan tỏa và phát triển nhưng thực ra chính vì nhạc sĩ đã thành công tuyệt đối trong việc soạn thảo và hoàn tác khiến mỗi ca khúc mang tới sự đồng cảm làm thổn thức run rẩy từng trái tim thính giả nên người nghe có lẽ vì không muốn cộng đồng nhìn thấy cái tôi sâu thẳm của mình nên mới ngại chia sẻ vậy . Nhưng theo tôi nhạc Nguyễn Tâm Hàn sẽ là dòng nhạc Việt trữ tình lãng mạn hay nhất trong hiện tại và tương lai sẽ trở thành dòng nhạc bất hủ với thính giả Việt Nam và hải ngoại.

Lắng chìm trong từng giọt âm thanh trong veo huyền ảo rót vào không gian tôi đã phải khép mắt lại để mong cảm nhận tối đa nhất những nốt nhạc thánh thót tan vào màn đêm . Phu Nhi đã nghe đi nghe lại rất nhiều tuyệt phẩm lòng thầm hỏi sao cũng những nốt nhạc , cũng những dụng cụ âm thanh , cũng những ngôn ngữ mẹ đẻ Việt Nam ấy mà sao Âm nhạc Nguyễn Tâm Hàn lại huyền diệu và quyến rũ người nghe đến thế và rồi Phu Nhi đã bằng lòng với phát hiện của mình khi thưởng thức dòng nhạc trữ tình lãng mạn và đắm say này. Đó chính là nét nhân văn luôn được tác giả chú trọng gọt giũa và chau truốt trong từng nốt nhạc và ca từ.
Trong nhạc : đó là tiết tấu du dương êm đềm . Vui, sôi động mà không phản cảm chói tai người nghe. Buồn mà không quá bi lụy , ảo não . Đó là điểm khác biệt, là tài hoa của Nhạc sĩ sáng tác khiến âm nhạc của Ông thôi miên từng đôi tai thính giả .
Trong nội dung : Nhạc sĩ Nguyễn Tâm Hàn luôn lựa chọn cho ca khúc của mình những ngôn từ giản dị mộc mạc đời thường dù ca khúc buồn . Day dứt khắc khoải về một kỷ niệm hay một vấn đề tình cảm tan vỡ . Nghẹn ngào đấy thổn thức đấy chia ly mất mát đấy nhưng trong từng ca từ vẫn chan chứa tình yêu thương không hề tồn tại trong bất kỳ tuyệt phẩm nào những âm ngữ oán trách , ruồng rẫy , uất hận giữa người với người chỉ vì rủi ro hay tan vỡ tình cảm bởi những mối quan hệ xã hội .
Nét nhân văn luôn là kim chỉ nam xuyên suốt nội dung từng nhạc phẩm . Nghe nhạc Nguyễn Tâm Hàn rồi ai đó đang yêu sẽ yêu nồng nàn tha thiết hơn . Ai đó đang giận dỗi tri kỷ như thấy nguôi ngoai hờn dỗi, vợi bớt buồn phiền . Và tôi chợt mỉm cười bởi ý nghĩ biểt đâu Âm nhạc Nguyễn Tâm Hàn lại đem đến cả sự kỳ diệu. Nghe nhạc Nguyễn Tâm Hàn rồi tình yêu , lòng vị tha đồng cảm và bao dung được âm nhạc đánh thức sẽ khiến những trái tim rạn vỡ vì tình yêu rung động trở lại mà quay về tìm nhau . Muốn có nhau thêm một lần nữa ?

Sẽ không có bất kỳ nhạc sĩ nào làm được như Thi Nhạc Sĩ Nguyễn Tâm Hàn . Các dòng nhạc tình nổi tiếng vì người ta luôn tìm cách thể hiện những điều cao siêu . Âm nhạc phải làm sao nổi bật , hoành tráng và ru tai người nghe mà sao lãng đi phần nào nội dung , ý nghĩa ca từ trong bài hát hoặc ngược lại có những ca khúc xem qua nội dung rất đẹp nhưng khi thưởng thức đôi tai nhiều thính giả không thể tiêu hóa nổi bởi những âm thanh pha tạp mà người ta cho là đổi mới và hiện đại ..... Với Âm nhạc Nguyễn Tâm Hàn tất cả đều hòa quyện hoàn hảo đến tuyệt vời . Không ầm ĩ khoa trương , không lăng xê và khoác lên mình vẻ hào nhoáng nhạc Nguyễn Tâm Hàn như từng hạt mưa xuân thấm dần trong trái tim thính giả ươm thức mùa xuân nghệ thuật và nhân văn trong mỗi tâm hồn. khơi dậy tình yêu cuộc sống, thiên nhiên. Tình yêu tổ quốc tình yêu lứa đôi. Tình người với nhau giữa cuộc đời . Nghe nhạc Nguyễn Tâm Hàn rồi thấy đời đẹp và tha thiết hơn . Người sống người hơn cuộc sống ý nghĩa và hân hoan hơn. Vài cảm nhận của Phu Nhi khi thưởng thức dòng nhạc trữ tình lãng mạn Nguyễn Tâm Hàn không biết có chung đồng cảm cùng với quý vị không .
Xin chân thành cảm ơn Thi , Nhạc sĩ Nguyễn Tâm Hàn đã sáng tác tặng cho đời những tuyệt phẩm bất hủ ạ !

Phu Nhi - 23-8-2017

THIÊN LÝ KHUYẾT
Tác giả: Châu Vũ Bảo Uyên

- Châu Vũ Bảo Uyên -

- Trời chiều nay nhiều gió, lạnh hơn mọi hôm. Thôi em vào nhà đi. Chàng nhìn nàng triều mến.

Nàng quay lưng và ngoan ngoan bước vào bên trong nhà.

- Mấy hôm nay nắng dòn tan nên thiên lý rộ nhiều hoa quá anh nhỉ.

Nàng đứng nơi bếp, đang để nóng chiếc chảo với ít dầu ăn trong đó. Nàng đang chuẩn bị xào thịt bò với hoa thiên lý cho bữa cơm tối. Nàng nói với ra phía sân; chàng đang lúi húi hái hoa bên dưới dàn thiên lý.

- Hoa thiên lý là phải có nhiều nắng. Không có đủ nắng thì thiên lý sẽ không ra hoa. Chàng nói với nụ cười hóm hỉnh.

- Nhà mình có dàn thiên lý này, vừa có hoa để làm thức ăn, vừa có cảnh để ngắm và mỗi ngày được ngươi mùi hương rất thoảng làm tâm hồn mình cũng nhẹ nhàng hơn!

Ngồi ăn với nhau trong bữa cơm tối, chàng gắp đưa qua chén nàng một đũa hoa thiên lý xào, vừa nói

- Nhớ ngày xưa còn bé, trong bữa ăn bố hay kể chuyện cổ tích về hoa thiên lý.

Nàng tròn xoe mắt nhìn về phía chàng.

- Hoa thiên lý cũng có chuyện cổ tích nữa sao anh?

- Ừ, chắc vậy mà. Anh đã nghe bố kể từ bé.

- Vậy anh còn nhớ không? Nàng như hy vọng.

- Nhớ chứ! Chàng khẳng định.

- Thế thì kể cho em nghe đi. Nàng hồi họp và chờ đợi.

- Để anh nhớ lại coi ... à, chuyện được kể như thế này,

Ngày xưa, xưa xưa, có một chàng trai thổi sáo rất hay. Hay đến mức, một con rắn lục mê tiếng sáo của chàng, đã quyết tâm tu luyện cho thành người để giành chàng làm chồng, mặc dù chàng đã có vợ.

Lần ấy, sau một chuyến mang cây sáo trúc đi thổi thi và đoạt được giải nhất trở về, vừa đến đầu làng, chàng trai đã thấy người vợ trẻ vừa xinh, vừa hiền của mình ra đón. Chàng vui lắm, đâu biết đấy chính là con rắn lục đã biến thành người và đã đóng giả giống y hệt vợ chàng từ vẻ mặt, lời nói đến dáng đứng, dáng đi... Về đến nhà, chàng trai bỗng rụng rời thấy một người vợ thứ hai bước ra ... Chàng trai không còn biết ai là vợ thật của mình nữa. Hai người đàn bà trẻ giống nhau còn hơn cả hai giọt nước. Chàng liền tìm đến một ông cụ nổi tiếng là tài giỏi trong việc tìm ra chuyện phải trái ở trên đời, để nhờ giúp đỡ. Nghe chàng nói rõ ngọn ngành, ông cụ nhận lời ngay và cho gọi hai người đàn bà trẻ đến.

Cụ già lấy vải đen bịt mắt cả hai lại rồi đưa cho hai người ba cái áo có mùi mồ hôi của ba người đàn ông khác nhau và dặn:

- Cứ ngửi đi và cái nào là của chồng thì gật đầu, không phải thì lắc đầu!

Cô vợ thật được ngửi trước. Cô vợ giả ngửi sau. Mắt cô vợ giả vốn là mắt rắn nên có thể nhìn xuyên qua vải đen. Vì vậy cô ta liếc nhìn người vợ thật, thấy cô này lắc đầu thì cũng lắc đầu, thấy gật đầu thì cũng gật theo. Thế là cả hai đều đã ngửi đúng được mùi áo của người chồng có tài thổi sáo. ông cụ liền cho mang đến ba bát canh, một bát có vị gừng, một bát có vị hành và một bát có vị lá hẹ. ông cụ dặn:

- Thứ canh nào chồng thích ăn thì gật đầu, thứ nào chồng không thích thì lắc đầu.

Sự việc lại diễn ra như lần thử trước. Thấy người vợ thật gật đầu khi nếm bát canh nấu với gừng, cô vợ giả cũng gật đầu theo. ông cụ cho cả hai cùng về, để cụ suy nghĩ thêm. Hôm sau, cụ lại cho mời hai người đến. Cụ để hai người đứng ở hai nơi, không trông thấy nhau nhưng cùng nhìn ra một con đường ở phía trước mặt, cách chỗ đứng khá xa.

-Ta sẽ cho ba chàng trai đi ngang qua đường. Nhận ra ai là chồng mình thì cứ vẫy gọi. Ai gọi đúng chàng thổi sáo tài giỏi thì người đó là vợ thật, ai gọi sai là vợ giả và sẽ phải chịu tội với dân làng.

Cô vợ giả lúc đầu lo lắm. Nhưng sau cô ta đã nghĩ ra được một lối thoát. Cô ta định bụng khi nào nghe tiếng cô vợ thật gọi thì cũng sẽ gọi ngay theo. Một người trai trẻ đi qua. Rồi hai người. Cô vợ giả không nghe tiếng cô vợ thật gọi thì cũng im lặng theo. Cô ta mừng lắm. Như thế thì người còn lại đúng là chàng trai thổi sáo tài giỏi. Vì vậy khi chàng trai thứ ba vừa xuất hiện thì cô vợ giả đã vẫy tay và gọi to:

- Anh ơi! Em ở đằng này này!

Trong lúc người vợ thật vẫn đứng im. Vì đó vẫn chưa phải là chồng cô. Cụ già liền dẫn chàng trai thứ ba đến trước cô vợ giả và nói:

- Như vậy, cô đã tự nhận cô là kẻ manh tâm đi cướp đoạt chồng của người khác. Chàng trai này đâu phải là người mà cô đã nhận là chồng cô.

Rồi cụ lại cho gọi cô vợ thật đến và hỏi:

- Trong ba chàng trai, không có ai là chồng cô sao?

- Thưa cụ, nếu là chồng cháu thì dẫu ở xa trăm dặm, ngàn dặm, cháu cũng nhìn ra!

Cụ già liền cho ba chàng trai khác tiếp tục đi qua đường. Đến người thứ năm thì người vợ thật kêu to lên mừng rỡ:

- Anh ơi! anh ơi! Đúng đó là chàng trai thổi sáo tài giỏi.

Sự việc đã rõ ràng. Cụ già liền theo lệ của làng, nọc cô vợ giả ra đánh một trăm roi. Nhưng chỉ đánh được chục roi thì đau quá, cô vợ giả đã hiện nguyên hình con rắn lục và bò nhanh vào bụi cây trốn mất . Hai vợ chồng chàng thổi sáo vui mừng lạy tạ ông cụ. ông cụ tươi cười bảo:

- Tìm ra được kẻ gian cho đời là lão vui rồi. Bây giờ lão chỉ muốn được nghe điệu sáo hay nhất của ônh thôi!

Chàng trai liền rút cây sáo trúc luôn giắt ở bên mình ra thổi. Tiếng sáo của chàng nghe réo rắt như tiếng chim, của trời, của sông, của nước nhưng nổi lên rõ hơn cả là tiếng của con người vui mừng được sống trong lẽ phải và tình thương. ai nghe cũng ngơ ngẩn say mê... Hai vợ chồng sau đó liền kéo nhau trở về nhà. Họ sống bên nhau đầm ấm vui vẻ. Hai vợ chồng cùng làm ruộng. Lúc rảnh chồng lại đem sáo ra thổi cho vợ và hàng xóm cùng nghe. Ngày hội, ngày Tết, tiếng sáo của chàng càng làm cho mọi người thêm yêu đời và quý mến nhau. Một buổi chiều, người vợ đang gội đầu, người chồng đang thổi sáo thì bỗng có con chim gì thả rơi ở bên chân người vợ một chùm hoa màu xanh phớt vàng có mùi thơm thoang thoảng. Đêm đến mùi hoa càng thơm hơn. Người vợ liền bảo chồng đặt bông hoa bên cạnh cửa sổ để có gió, hương hoa càng bay thơm khắp nhà.

Sáng hôm sau, thức dậy, cả hai vợ chồng đều lạ lùng thấy bông hoa đã kết liền vào một loại dây leo mọc ở cạnh cửa sổ. Và sau đó, không phải chỉ có một chùm hoa, mà rất nhiều chùm hoa khác lại nở tiếp theo. Hoa màu xanh phớt vàng hình giống như ông sao năm cánh, hương thơm dịu ngọt. Loại hoa ấy ngày nay ta gọi là hoa thiên lý. Vì sao lại có cái tên ấy? Các cụ xưa giải nghĩa: Vì tên cô vợ thật là Lý. Còn thiên lý là vì ông cụ có tài tìm ra mọi việc phải trái, đã dựa vào câu trả lời của cô vợ thật mà đặt tên mới cho cô và trêu cô:

- Tên cô từ nay không phải là Lý mà là Thiên Lý. Thiên Lý nghĩa là nghìn dặm, nghìn dặm mà vẫn nhận ra được chồng mình... !

Các cụ còn nói thêm: Cô vợ giả, tuy đã trở lại kiếp rắn lục nhưng vẫn giữ trong lòng mình mối hận đối với cô vợ thật... Vì vậy ai yêu hoa Thiên Lý, rắn lục không thích đâu. Rắn lục thường bò nấp vào các dây hoa Thiên Lý để mổ cắn những ai thích ngắm hoa Thiên Lý, yêu mùi hương Thiên Lý. Nhưng cho đến nay càng ngày mọi người càng quý càng yêu loại hoa có mùi hương rất dung dị và mộc mạc này.

Nàng choàng tỉnh dậy, và ngồi hẳn trên giường.

- Thì ra mình đã nằm mơ!

Cuộc sống ngọt ngào như bên giàn thiên lý của nàng và chàng, bây giờ chỉ còn lại trong những cơn ngủ mơ, vì nó đã trở thành một quá khứ không bao giờ quay về nữa.

Nghĩ đến đó, nàng bật khóc như chưa bao giờ nàng được khóc. Khóc cho vơi hết những u hoài, nhớ thương trong mấy năm tháng nay. Nàng như chợt nghe một làn hơi rất ấm áp choàng trùm lên đôi vai của mình. Mấy hôm nay nàng cứ hay ngủ mơ thấy chàng. Hơn bao giờ hết nàng thấy nhớ chàng đến thật da giết, khôn nguôi.

Nghe tiếng ho dài liên tục và sặc sụa trong phòng tắm, nàng chạy vào từ nhà bếp. Chàng ngồi rạp sấp trên sàn nhà. Trên tay cầm một chiếc khăn ướt sẫm máu tươi.

- Trời ơi, vậy là sao hả anh? Anh bệnh cảm thôi mà sao bây giờ lại nên cớ sự như vầy!

- Tại anh dấu em đó thôi.

- Chúng mình là vợ chồng cơ mà. Vui cùng vui, khổ thì cùng khổ chứ anh!

- Anh xin lỗi em nhé. Nếu anh có ra sao thì em hứa với anh là vẫn sống cho thật tốt nha.

Cơn bệnh hiểm nghèo đeo lấy chàng trong một khoảng thời gian dài, và nó đã phá toan cuộc sống hạnh phúc của chàng và nàng.

Nàng nghe vị mặn nơi cổ họng của mình vì chợt nghĩ nhiều đến có một cuộc đời lặng lẽ đi qua cuộc sống này mỗi ngày trong những buồn vui. Như những nụ thiên lý rộ nở đầy giàn sau những cơn nắng dòn rực rỡ. Nàng gọi đây là giàn thiên lý khuyết dù hưong thơm dịu dàng vẫn đeo đuối lòng người một cách ngọt ngào. Nàng nghĩ đến chàng, vẫn cô đơn bên cạnh cuộc đời còn lại của nàng. Nàng ước gì những ngày nắng dòn được kéo dài thêm nữa, để thiên lý lại rộ nở đầy giàn, nhưng không hề bị khuyết!

- CVBU -
Tâm Sự Với Đêm …
Tác giả: Vương Thanh

Đêm dài, nằm nghe một khúc Vô Đề Ca, chợt nghe cảm khái . Ý thu vời vợi, trời đất mang mang, biết cùng ai say cạn chén u hoài ? Trời cao mây trăng lững lờ bay …. Ta chợt uớc mình theo cánh gió rong chơi tứ phương, cùng mây lang thang, phiêu bạt muôn nơi . Hay là như cánh chim bằng, , xoải cánh vút trời mây, ngao du thiên địa., sáng lên xứ tuyết, chiều xuống thảo nguyên, tối vào sa mạc, khi về, lại ghé qua thương hải, lặng nghe tiếng sóng biển dạt dào … reo vang khúc Sinh Diệt Ca của muôn đời …

Giai nhân danh sĩ tự ngàn xưa, hỡi ôi, hồn giờ ở phương nào ? Ta muốn ngược dòng Thời Không về thăm Thanh Liên cư sĩ, cùng nhau trăm chén rươu dầo, cho sầu vạn cổ tan vào khói sương! Lại mơ gặp Hoài Điệp Thứ Lang dưới ánh trăng tàn, nghe tiếng lòng ai đang thổn thức gọi người dưới nấm mộ sâu. Tìm chàng họ Nguyễn, xót tình “lỡ buớc sang ngang”, lưu lạc cuối trời nam, nghêu ngao ca hát giữa chợ quên tháng ngày . Mời y vài chén rượu cay … Cùng là kẻ tha hương, phiêu bạt góc biển chân trời … Ta lại đi thăm Chàng Say, trêu chàng còn khóc thương nàng Tố trong mộng trong Thơ cho đến bao giờ … Về bến Tầm Dương, nghe tiếng đàn ai như oán như khóc như than, xót thuơng cho phân hồng nhan lênh đênh, trôi nổi theo dòng đời … Rồi ta lại thả buớc phiêu du qua Âu Châu, xem bậc thiên tài Shakespeare vẩy bút viết những dòng kịch thơ bất hủ …

Nhưng đó chỉ là một giấc mơ . Nhân sinh nhược mộng, thiên dịa vô tình . Ta như là hạt bụi, nhẹ trôi trong dải Ngân hà... Vẫn biết đời nguời là vô thường , sao lòng còn nặng những sầu vương !...

Nâng chén rượu đối gương mời uống
Vẫn là ta phóng lãng giữa trần ai
Thiên nhai vang chuỗi cười dài
Nào ai tri kỷ tại hà phương
Cùng ta dốc cạn sầu trường thiên thu …

vương-thanh
09.09.2017
THU VÀ THƠ
Tác giả: Kim Anh Nguyen
Thơ không phải là thơ mà là mơ mơ là mộng ,mộng thì không thực ,mộng vì mơ ,mơ nên làm thơ ! Ai cũng là thi nhân cả ! Người làm thơ là thi sĩ ,người đọc thơ ,thích thơ là thi nhân .Chúng ra đều ở trong cõi thơ ! Người nào không yêu thơ thì cũng giống như đi giữa vườn hoa mà không thưởng thức được vẻ đẹp của hoa !Thơ là món quà tuyêṭ vời mà Thượng Đế đã tặng cho loài người ! Và thi sĩ là sứ giả của Thượng Đế .Chúng ta hãy yêu những thi sĩ ! Đó là những người có những rung động siêu nhiên tuyệt vời để mới có thể đem đến cho đời những vần thơ !Không bao giờ chúng ta chê khen một bài thơ vì nó là hương sắc của trần gian , nó đều mang một sứ mệnh giống nhau ,đa dạng và nhiều màu sắc . Màu nào hạp với anh thì anh tìm đến ,đơn giản chỉ có thế !
Nơi đây lá đã thay màu ,đã bắt đầu rơi !
Mình sẽ đi trên những chíếc lá vàng để nghe tiếng lá xao xạ́c dưới chân mình .Đằng trước mặt vẫn rơi hoang mang vài chiếc lá gây tiếng động nhẹ nhàng heo may khi chạm vào những chiếc xe đậu ở đó .
Mỗi ngày tôi đi ngang qua công viên dưới hai hàng cây rợp bóng xanh um giữa mùa hè ! Tôi khoái đi ở con đường này dễ sợ ! Nó tạo cho mình cái cảm gíác mình đang đi giữa hai hàng binh lính trang nghiêm kính cẩn dàn chào
Mùa thu làm nhớ người yêu ! nhớ về một tuổi thơ xanh đẹp tuyệt vời đã bỏ mình đi đâu mất biệt để mỗi khi thu sang cứ đi trên lá vàng để nghe buồn man mác trong lòng . Không có mùa nào gợi cho con người nỗi buồn nhẹ nhàng thơ mộng như mùa thu !
Thu làm cho mình nhớ Huế , mùa thu ở Huế nó dịu dàng làm sao !Dịu dàng e ấp e dè như những O gái Huế ! Không hiểu sao tôi mê mấy O gái Huế dễ sợ !Không phải vì tôi cũng là gái Huế ,mà nó có cái gì đó nó hấp dẫn vì cái mong manh nhẹ nhàng nhưng đáng sợ của mấy O Huế Nó là cả một khung trời khép kín ,nó gợi cho người ta cái hứng thú muốn khám phá cái thâm cung bí sử trong lòng những cô gái Huế !Dân miền Nam bộc trực thẳng thắng,có sao nói vậy ,nhưng con gái Huế thì không .Cho nên những thời gian đầu khi từ Nha Trang đổ bộ về Huế ,tôi va đầu vô không biết mấy chục tảng đá để đánh thức lại cái máu Huế của mình .
Chừ Huế lại tha hương , Huế đang ngồi viết về mùa thu nơi xa để nhớ về một thời mơ xưa bỏ mình đi không trở lại , nhớ về những mối tình không trọn của một thành phố thơ mộng , của những tan tác chia lìa tuổi thanh xuân phũ phàng đổ lên đầu của mớ đầu xanh ngây thơ thuở nọ . Tôi sẽ viết ,tôi sẽ làm thơ để hoài niệm những mối tình không trọn ,để khóc gìum cho những người bạn cùng lứa tuổi !
Thời gian đã qua đi ,tuổi thần tiên thơ mộng của đời cũng không trở lại . Nhưng trí nhớ ,nhưng kỷ niệm cứ sống mãi trong lòng ,cứ theo về quấy đảo lòng người !
Ôi muà thu !
BÌNH BÀI THƠ LÁ THƯ XANH.
Tác giả: Frederic Tho
Lá thư xanh! Sao ko là những cánh thư hồng? Đúng màu xanh của hy vọng . Người trai hy vọng cánh thư đi sẽ có ngày trở lại mang niềm thương nỗi nhớ của người đi về cho người ở . Có biết chăng cánh thư không bao giờ đến vì thời cuộc!. Cánh thư xanh gói cả tâm tình trai gái . Nhịp cầu tình cảm thời xa xưa , phương tiện liên lạc duy nhất. Người bưu tá ấy con tem ấy cả thế giới biết ơn. Nhờ lá thư xanh biết lòng người viễn xứ thương nhớ vơi đầy với những đêm dài không ngủ. " Thương nhớ bời bời đêm trong đêm" . Đoạn thơ đẫm hơi men . Men rượu thì ít mà say men tình. Cái buồn ở đây mênh mang , bởi thời gian " dài dằng dặc" bởi không gian xa lắc bởi người đi đến phương trời mịt mùng xa thẳm. Lá thư xanh nhịp cầu hi vọng tuy ko nói hết lòng nhưng cũng dệt" được "mộng lành" cũng làm vơi được nỗi nhớ nhung da diết của " những đôi trai gái tuổi xuân đầy" "xuân mộng". Nhưng cánh thư trùng trùng điệp , nhiều lắm . Môt thời yêu nhau trong xa cách chỉ biết gói ghém tâm tư trao lại ân tình của lòng mình trong những cánh thư . Điệp ngữ lột tả được cái hậu của thư chúng đã náo nức tìm nhau . "Trăm ngàn"- con số có tên mà trìu tượng . Con số vô định ko thể đếm được của thư thời con tem. Nhưng buồn đau nhất là những bức thư ko gửi! Sao lại ko gửi? Chỉ có người viết mới trả lời được ! Phải chăng ko có địa chỉ. Hay người ấy đã sang ngang. Hay chiến tranh súng đan đã giết người em gái tuổi xuân thì chưa một lần cầm bàn tay giá chuyền hơi ấm .Hay.. hay .ko trả lời nổi. Ko gửi đi cất làm kỉ niệm để rồi " xem lại qua màn lệ " mà ko phải dòng lệ ? Màn - mới đắt từ làm sao . Tác giả đã khóc cho số phận nổi trôi, khóc cho một cuộc tình vô vọng của người đi không hẹn ngày trở lại. Khóc cho người con gái mang tà áo tím thủy chung đợi chờ người đi ko bóng chim tăm cá! Rượu can ly , hay mắt cạn dòng lệ? Bởi thư viết bằng máu của con tim đang yêu tuổi xuân hồng của người xa xứ . Thèm một nét môi , một nụ cười , một ánh mắt của người quen đồng hương thôi cũng khó. " Viết rồi cất giữ một mình xem" xem làm chi khi mỗi lần xem như khơi đốm lửa tàn le lói hoặc chẳng còn le lói được .Nó đã nguội lạnh trong đớn đau nuối tiếc. "Những lá thư viết trong tim" Là những lá thư khắc con tim ứa máu sao gửiđược mà ko giữ lại ? Nó chính là nỗi đau ko chia sẻ được chỉ thốt lên bằng lời. Dù sao đọc "Lá thư xanh" ta cũng trải được lòng mình cùng tác giả bởi đời ai cũng một lần yêu cũng nhiều lần viết thư không gửi. Để rồi thời gian qua đi ngồi gậm nhấm lại một thời sôi nổi con tim yêu. Cảm ơn tác giả cho ta đọc những vần thơ máu thịt , những tình cảm thực đầu đời mà ai đọc cũng thấy mình là người gửi , người nhạt nhòa suối lệ khi nó chạm vào góc khuất của tâm hồn . Cảm ơn frederic Thọ đã cống hiến cho độc giả tác phẩm giản dị đẫm tính nhân văn. Cả bài thơ là bản tình ca của nhân loại mà ai cũng soi thấy mình trong đó vui khi nhận buồn khi đọc . Khóc khi chia tay . Ôi những cánh thư xanh nhịp cầu nối những bờ vui. Thương cảm sâu sắc với những cánh thư ko gửi , nỗi lòng tác giả gửi gắm trong thơ .Bài thơ kết trong cô đơn, trong buồn nhớ.trong men say của rượu giải sầu . Cảm thương! Cảm thương!
HOA ĐỖ
Like
Bóng đêm cuối cùng
Tác giả: Phan Thị Trọng Tuyến
Bóng đêm cuối cùng
Tôi giựt mình thức giấc, đôi mắt cay xè, nhức nhối. Tôi nhớ rằng hôm qua mình đã trằn trọc, tủi thân, khóc thầm rất lâu. Ðêm mộng mị, ngẹn ngào đã qua. Buổi sáng bắt đầu tự bao giờ. Quanh tôi vắng vẻ nhưng ở ngoài trại, con đường hẻm đã ồn ào náo nhiệt. Tiếng rao hàng, kêu gọi nhau của người lớn, con nít, kẻ bán người mua. Tiếng chén dĩa, ly tách va chạm nhau, tiếng vò giặt quần áo, tiếng nước chảy… Tôi nhìn ra đầu trại. Quán cà phê của thím Ba Xanh đã có ba bốn người khách ngồi húp cà phê lặng lẽ. Qua lớp vải mùng vàng ố, lấm tấm những vết máu muỗi nâu sẫm, tôi thấy thím ngồi tư lự, một chân co, một chân duỗi gác lên chiếc ghế thấp, một tay để trên đầu gối, tay kia hờ hững đuổi ruồi. Thím chắc đang nghĩ đến đoàn người đã đi hôm qua, chú Ba dẫn đầu.
Hôm qua, người lớn thản nhiên nhưng đám tiểu yêu đầy vẻ nghiêm trang dù tôi biết chắc trong bụng đứa nào cũng hí hửng như được vàng. Mà còn hơn cả vàng nữa kia.Tôi nghe cục nghẹn dâng lên chận cổ. Sao lần nào cũng vậy, người ta vui thì tôi buồn. Má tôi hôm qua đã an ủi thôi con à, số phần của con… Tôi cũng biết nhưng tránh không khỏi những lần gánh hát lưu diễn phương xa là cả đêm sụt sùi giọt dài giọt ngắn. Sự thật thì tôi đã ngẩn ngơ buồn bã từ trước, khi tụi con nít xếp hàng lạy nhoi trước bàn thờ Tổ theo lời chú Ba dặn. Như mọi lần xuất quân khác, người lớn lạy trước rồi tới tụi nhỏ. Tôi phập phồng thổn thức theo từng tiếng cười, từng cử chỉ, ghen tức với sự chen lấn, xô đẩy của chúng. Mặc dù má tôi có nói lần này tụi nó về quê bên phía thím Ba, tiếng là theo đoàn lưu diễn chớ thật ra là nghỉ hè ăn nhờ cơm bên ngoại.
Hừ, có mấy khi tụi nó được đi đông như lần này, thứ làm tì nữ với quân hầu, chỉ được phép nói hai ba tiếng, giỏi lắm như Hai Nhãn thì được ca một câu ngắn, vậy mà cũng lên mặt với kẻ ở lại ! Ði ngang giường tôi, nó giả bộ không thấy tôi đang nhìn nó đăm đăm, chờ nó ngó để lên tiếng hỏi coi nó được phép ca bài gì. Ca thì tôi đâu thua đứa nào. Chú Ba ngồi nghe tôi ca lần nào cũng chắc lưỡi khen hay. Ðiệu gì tôi cũng rành, nhất là mấy điệu vui như Lưu Thủy, Kim Tiền. Ðôi phút rảnh rang, ngoài giờ buôn bán, má tôi bảo tôi ca. Rồi má tôi gõ sanh, ba tôi đệm lục huyền cầm, cậu Năm kéo vĩ cầm phụ họa. Tôi say sưa cất giọng, hát một hồi thấy bà con bu đông nghẹt… Mắc cở nhưng trong bụng rộn ràng làm sao. Mấy chú, bác ; cô dì cứ tiếc tôi không lên sân khấu được. Làm sao các soạn giả Ba (Xanh) Kim, Tư (Công) Danh ( là ba tôi) và (cậu) Năm (Can) Trường đặt được một vở tuồng đặc biệt nào có thể dành được một vai trò cho tôi. Thị nữ ? Aùi thiếp ? Vai nào tôi cũng sẽ gặp khó khăn trừ vai kẻ ăn mày, nhưng không ai nỡ nghĩ đến vai trò này cho tôi. Có một lần thím Năm má con Nhãn ngồi tẩn mẩn dồi phấn, thoa son cho tôi cả buổi. Xong, thím ngó tôi trân trân. Rồi thím hớt ha hớt hải chạy kiếm má tôi, chị Tư ơi, vô đây tui chỉ chị cái này ngộ lắm. Hai bà đứng trước mặt tôi trợn mắt tròn vo :
- Trời đất quỉ thần ơi, chị thấy da nó ăn phấn dễ sợ chưa. Ðẹp y như cô Thanh Nga hồi cổ lãnh giải Thanh Tâm.. ý cha ơi, phải chi con lành lặn…
Thím biết thím lỡ lời thì đã muộn, tôi chạy ra ngoài sàn nước khóc như gió như mưa. Nước mắt rớt xuống những tấm ván mục rã đen thui. Phía dưới sình cũng đen không kém, mặt sình đầy rác rến mới cũ, mùi hôi bốc lên, con nước đang xuống. Một vài cây cột xiêu vẹo không còn chống đỡ được sàn nhà vì đã gãy, giơ cùi chổng chơ, lớp sình bám quanh bắt đầu khô, nứt nẻ… Má tôi vuốt tóc tôi :
- Thôi, đi vô con à, thím nói vậy không phải có ý chê con đâu…
- Con đâu trách thím, đó là sự thật…số kiếp con mà thôi…Cô Thanh Nga lãnh giải Thanh Tâm năm 16 tuổi !
Má thất sắc. Tôi hối hận nhìn lên cầu. Người công an gác cầu đang đi về phía bên kia, tiếng chân kéo bước lẹp xẹp, khói thuốc lá bay uốn éo trước mặt.
- Thôi để má rửa mặt cho rồi ra quán phụ má, lẩn quẩn làm sao lại rớt xuống sông, mắc công má chạy đi mua xà bông thơm như má con Lạc bữa hổm.
Má khiến tôi bật cười, hai hàng nước mắt chưa kịp khô. Bởi vì tôi nhớ rõ hôm đó, con Lạc chột bụng quá, chạy một cái ào ra cầu tiêu. Những tấm ván mục kêu thất thanh dưới gót chân nó. Ngồi chưa được mấy giây thì rắc rắc ùm ùm mấy cái, đôi tấm ván gãy vụn lìa đời, nó té xuống sông một lượt với .. mấy cục phân. Báo hại dì Năm phải nhảy xuống vớt nó lên, dì chửi nó con gái mà đi đứng như tướng cướp và rủa xả mấy tấm ván bất nhơn. Cả trại được một bữa cười no nê. Dượng Năm vớt mấy mảnh ván vụn sắp lớp, tấm trên cùng mang mấy chữ viết nắn nót bằng phấn rất đẹp : nguy hiểm, cấm xài. Cầu tiêu số hai như vậy là được về hưu.
Ba cầu còn lại…chịu đời đắng cay. Mỗi lần con nít ra cầu là người lớn chửi oan mấy tấm ván, căn dặn lũ nó phải dùng phép khinh công, thi hành nghĩa vụ nhanh gọn, có bà lại cằn nhằn trẻ con thời bây giờ ăn ít mà sao ỉa nhiều làm vậy. Từ năm năm nay tôi không còn thấy ai đề nghị bà con hùn tiền thay ván cầu, thay ngói hay làm bất cứ một sửa sang nào cho trại ; nói gì đến dãy cầu tiêu và sàn nước có mái che nằm ngay trên bờ sông và cất thêm dọc theo trại này. Ngày xưa, sông nước còn trong đầy và thông chảy ro ro, ngoại tôi kể rằng người trong trại "sang" lắm, vừa tắm sông vừa bắt cá. Bây giờ tôi lớn lên nó thành Kinh nước đen. Nghe như tuồng xã hội hương xa thời đại. Hỏi cậu Năm. Cậu cười : ừ, một tuồng hay của bạn ba con thời xửa thời xưa. Cái thằng tiên tri số một, mà trù ẻo cũng số dzách.
Từ mấy năm nay, ai lượm được cây gỗ tạp, mẩu nhôm sắt vụn, vỏ bánh xe cao su v…v…chắp vá được chỗ nào hay chỗ đó. Cho trại. Cho cái nhà tắm nhà cầu cổ lổ nhà quê. Thoạt nhìn thì thấy bề thế lành lặn liền lạc nhưng ai ngồi rửa chén, giặt đồ trên cái sàn nước thần sầu quỷ khốc ấy đều có thể biết nước ròng hay nước lớn, phân biệt được rác rến hay thằng chỏng chết trôi. Cho nên khách lai vảng thường trực, có môn bài là mấy bà nột trợ. Múc nước sông hay đi gánh nước phông tên đổ vào hàng lu ngoài mé sông. Giặt giũ, rửa chén, tắm con. Lũ con nít chẳng giấy phép hoặc không lí do chánh đáng là đố được léo hánh ra đó.

*

Ra ngoài cửa trại, tôi ngồi sà xuống bên cạnh má :
- Con coi quán, má ra chợ đi.
Má quay lại, tươi cười :
- Ừ, má đi liền. Con ăn khoai đi, củ này nè, củ bột không đó con, còn nóng má dành riêng cho con. Hễ má về không kịp, nhớ nhắc cô Tư đem đậu tới sớm cho má đãi sạn. Khoai lúc này cũng xấu háy quá, mắc tiền mà bị sâu bị sùng nhiều lắm, phải lựa kỹ mới được.
Má còn nấn ná chải đi chải lại mớ tóc dài của tôi, chẻ đôi, thắt thành hai cái bím to vắt vai. Má nói dịu dàng :
- Con gái má lớn rồi, đã mười tám, nhớ sửa soạn, chải gỡ cho gọn gàng, đẹp đẽ. Lóng rày má thấy con hơi buông thùa…
Má đi rồi, tôi ngồi thờ thẫn, mắt đăm đăm nhìn mấy cái cửa đóng chặt của căn nhà Kha trước mặt. Mọi khi, Kha ngồi học bài, đầu tóc và cái trán lấp ló lên trên khung cửa sổ, hai mắt hấp háy nhìn tôi. Nhà Kha đã bị niêm phong từ bốn tháng nay. Giờ đây gia đình Kha với ba tôi và anh hai tôi chắc là đang ngồi lóng nhóng nơi đất mới để chiều nay gửi tới quê xưa, biết là bao thương nhớ cho vừa…Bốn tháng nay tôi hay bị nhảy mũi. Mỗi lần hắt hơi xong, mở hai con mắt ra, tôi thấy bên kia cửa đầu trại, thím Ba ngưng tay, nheo mắt nhìn tôi :
- Có người nhắc con đó, con gái ! Ai vậy cà ?
Tôi đếm trong bụng : một cái là Kha, hai cái là ba, ba cái là anh Hai.
Má tôi chỉ được tin ba vào tháng vừa qua khi chủ ghe đến đưa bằng cớ để lấy nốt phần tiền còn lại. Hai má con lén dẫn nhau ra chợ kêu hai tô hủ tíu ăn mừng, vô chùa lạy Phật tạ ơn. Chấm dứt âu lo. Bắt đầu hi vọng.
Hồi Kha còn ở đây, buổi chiều anh hay ra ngồi coi hàng với tôi. Ðể hai đứa ngồi thủ thỉ nói chuyện, để anh trừng mắt với những đứa con nít gian ác giả bộ mua đồ trêu chọc tôi. Ðể tôi thấy nắng rực rỡ màu hồng, để tôi không nhìn thấy sự tàn tật của mình, để tôi không nhìn thấy sự nghèo nàn cơ cực của xóm nhỏ. Ðể mùi hôi hám, để sự sống chung lộn lạo của trại này không làm tàn héo con tim mười tám của tôi. Kha thương tôi từ khi hai đứa còn nhỏ xíu. Kha bảo vệ tôi đánh đuổi những đứa dữ tợn theo trêu ghẹo, níu kéo tôi. Kha lượm viết, lượm đũa…mỗi lần má dạy tôi viết, ăn cơm…:
- Này cô bé, bán cho chị hai miếng kẹo lạc, ối giời ngồi trông hàng mà mơ mộng những đâu thế!
Tôi giật mình ngẩng lên, cười gượng. Ðó là chị Ba Kiểu. Mọi khi, tôi giả bộ giẩy nẩy : kẹo em ngọt đường phèn mà chị cứ chê kẹo lạt. Lần này, tôi chỉ mong chị đi cho mau mau, ở đó mà đôi co với chị về đậu nành với đổ tương, mè với vừng, mì với sắn, bắp rang với ngô bung …vân vân, ắt có đường ló đuôi. Tôi gật đầu chào :
- Thưa chị Ba đi chợ !
Chị nựng cằm tôi :
- Có tí việc vào xóm chị ghé thăm em và dì Tư. Hai mẹ con khỏe chứ ? Em chị ngày càng lớn càng xinh.
- Dạ, thưa khỏe. Má em ra chợ…
- Còn dượng Tư với cậu Kim … chắc cũng khỏe hở Ngân ?
Tôi nói nhanh :
- Thì khi em nói khoẻ, nghĩa là khoẻ cả nhà. Chị ăn khoai nha, ngon lắm, thứ khoai bột, khoai trắng vành tím như ngọc má dành riêng cho em đó. Khoai này ở ngoải kêu là gì hả chị Ba ? Dạ thưa, chị lấy bao nhiêu kẹo đậu phọng…
Chị lân la hỏi xa hỏi gần khiến tôi nghi rằng chị đang …nghi nên tôi càng nóng ruột, trả lời cộc lốc. Thất thế, chị cười cười, lắc đầu, móc túi trả tiền, xoa đầu tôi rồi cầm gói khoai, kẹo bước đi như chạy. Nhìn theo dáng chị lạch bạch tất tả, tôi lắc đầu, thở ra một cái ào. Má tôi nói chị tướng khổ. Khi đi, đầu ngực chị ngả chúi về phía trước đòi đi mau hơn hai cái chân gầy. Ðộ rày chị buồn chi mà ăn hàng lia lịa, ngực bụng ngày càng to tròn. Ðầu tóc quăn biếng chải phồng to như một đống râu bắp ngổn ngang tâm sự. Nếu chị cứ tiếp tục đà đó, nghĩa là cứ mải mê bận tâm đến sức khoẻ hàng xóm láng giềng, đến phụ nữ và đạo đức cách mạng, một ngày kia đôi chân chị thế nào cũng phải đầu hàng một sức nặng quá tải.
Chị là vợ anh Ba Kiểu, anh tập kết về trại hồi sau "giải phóng". Anh Ba có chân trong "ban lãnh đạo " của đoàn hát Ðồng Phước này. Lúc ấy, anh chị dọn vào ở ngay trong trại. Ðược vài tháng, đầu xóm có mấy gia đình đi đâu mất biệt, bỏ nhà không, anh chị được chia cho một căn, bèn dọn ra khỏi trại. Bà con thở phào. Tôi dám chắc anh chị cũng nhẹ nhõm.
Hồi mới về "tiếp quản", anh Ba đeo mắt kiếng đen, bận áo sơ mi trắng, đứng trên cầu Bông ngó xuống. Tay anh chống nạnh, kéo lệch "vô tình" một chéo áo, khiến ai cũng dòm thấy cái báng súng lục lấp ló ! Anh công an gác cầu nghiêm mình giơ tay chào. Anh Ba đứng trên cầu hất mặt nhìn xuống trại rất lâu. Mấy bà ngồi… cầu tiêu kêu nho nhỏ mấy bà ngồi giặt đồ, mấy bà cùng ngưng " đi ", ngưng tay, ngó trở lên.
- Ai mà …le quá ta !
- Ýcha, kiếng đen, súng lục…điệu này cán bộ… cỡ bự nghen bà con !
- Ai như chú Ba Kiểu..
- Không lẽ nó, nghe nói chết ở ngoải rồi mà…
- Ðúng rồi mấy bà ơi…cha chả oai phong dữ ha…trại mình phen này nở mặt nở mày với người ta…
Anh bỏ gánh đi tập kết từ hồi ba má tôi chưa gặp nhau, và gánh hát bấy giờ cũng đang làm mưa gió miệt lục tỉnh. Không như bây giờ…
Chị Ba làm ở công ty thiết bị vật tư. Thời gian ban đầu, "đậm tình cá nước", thuận thảo trong ngoài. Mấy năm sau, tôi bắt đầu biết nhận xét thì mối tình thân giữa trại với vợ chồng anh cũng tàn phai theo thời gian và tình trạng của trại.Tình trạng ngày một kiệt quệ, về vật chất lẫn tinh thần.
Cả trại ở mấy chục gia đình. Gánh hát về, trại đông đảo nhộn nhịp, gánh hát đi thì vắng vẻ, chỉ còn lại đào kép già bịnh hoạn hay đã giải nghệ, những bà nội trợ, lũ con nít. Nhộn nhất là vào mùa mưa. Vì nóc dột tứ bề. Trời vừa gầm gừ, mây đen ào ào kéo tới, gió cuốn rác bay vù trên cầu; trại nhốn nháo như có giặc. Những đồ đạc cứu dột : lu hủ, thùng hứng nước được bày ra. Bên ngoài đầy mưa giông sấm sét, ở trong rộn tiếng gọi tiếng cười, tiếng kim khí thùng chậu lanh canh chen với tiếng rú của lũ trẻ, tiếng phàn nàn của người lớn. Trại la liệt những lon nhôm, thùng thiếc, thùng nhựa, nồi niêu. Vậy mà không tránh được lầy lội trong trại sau mỗi trận mưa. Nước đọng vũng từ đầu trại đến cuối trại. Mùa khô thì sân đất đầy sao nắng, mùi sình dưới sông bay lên ngập trại. Những ngày nắng mưa lam lũ đó đựợc quên đi mỗi lần gánh hát trở về nghỉ xả hơi. Trại đông vui, sống động. Không khí thay đổi hẳn, gia đình nào cũng hớn hở vì có người thân về. Rồi tụm năm tụm ba tập tuồng mới, tập ca, tập đờn, gõ phách, gõ mõ, đánh nhịp. Quầo áo, cờ xí, mũ mãng đem ra, mấy bà xúm xít kết nút, đắp mụn vá và giặt giũ ngoài sàn nước. Mấy sào quần áo reo vui, màu mè sáng rỡ dưới nắng. Ai qua lại trên cầu cũng nhìn xuống trầm trồ, nhứt là dân trong xóm. Biết ngay là gánh hát về.
Lúc trước, ba tôi còn chịu khó ngồi vẽ thêm mấy tấm phông cây cảnh, hang động, suối thác chảy qua ghềnh, đền đài, núi non. Bây giờ chỉ chuyện tô lại vài chỗ mờ, dậm màu đôi chỗ vá, chỗ mạng mà ông còn kiếm không ra tiền mua sơn, nhưng má tôi cứ dòm chừng. Hễ thấy ba thờ thẫn buông cọ là má kêu anh Hai tôi : lợi đây má biểu. Má biểu anh Hai khiêng mớ gươm, giáo, mác, thương bằng gỗ ra ngoài sàn nước rồi anh kéo nước sông lên cho ba ngồi cọ rửa. Má thoăn thoắt lượm sạn trong rỗ đậu hoặc cắt bỏ khoai sùng mà không ngừng hỏi han ba. Những ngón tay thon thả chụm xuống nhón lấy những hạt sỏi, bàn tay xoay tròn mở bung ra như những cánh hoa nở xoè tung hạt mầm ra sông. Giọng má mềm, tiếng anh, tiếng em, con gái mình, ngọt ngào như nồi chè, thơm dẻo như mẻ kẹo đậu phọng má vừa cán ra trên vỉ nhôm dầy một lớp mè rang vàng.
Nghỉ ngơi vài bữa, đôi tuần là đến ngày mọi người lại nôn nao khiêng đàn, trống, áo xiêm phông cảnh ra xe, và người lớn, con nít quỳ lạy trước bàn thờ Tổ.
Cuộc sống của trại, của mọi người thăng trầm đều đặn như vậy từ ngày má tôi còn trẻ, học ca với chú Ba và ông ngoại. Theo má tôi nói thì trại do ông Năm Châu xây cất làm nơi chứa đồ đạc cho đoàn hát, dần dà hoá ra nhà ở cho thân nhân, gia đình nghệ sĩ. Khi đoàn hát chánh tách đôi tách ba vì tài tử trở nên vang lừng danh tiếng, đoạt giải này giải nọ, vì mầm non rầm rộ ra đời, thì trại càng đông người. Tài tử gạo cội danh tiếng ít đi, mầm non và gia đình lại vô số kể, đoàn hát trải qua đôi ba thời phồn thịnh, thái bình, bao nhiêu gia đình đã dọn đến dọn đi, bao nhiêu đào kép đã thay đoàn, đổi gánh, đã được mua bán, đổi chác. Chú Ba và ông ngoại tôi kiên trì lèo lái gánh nguyên thuỷ …Ðến thời má tôi lớn lên, mọi hào quang đã bắt đầu lu mờ, phấn son không còn đủ che đậy những nét nhăn, những vết rạn trên mặt người, nét tàn tạ mỏi mệt của hai chiếc xe cam nhông, của những người sống sót, gắng gượng đeo đuổi kiếp cầm ca, tằm trả nợ dâu. Ai muốn tìm đến những chân trời khác (bán ba, hát tân nhạc…) thì bỏ trại ra đi, người còn lại gắng gượng hay anh dũng nối nghiệp ông cha.
Bây giờ, tôi lớn lên, bị cái không khí đờn ca quyến rủ. Mỗi lần ngồi trong hậu trường hay dưới hàng ghế khán giả, người cứ lả đi, say mềm vì ánh đèn sân khấu, vì những tiếng hát, lời ca, vì những chuyến đi xa, qua những tuồng tích, những vai trò, những cuộc đời…phiêu linh, những cuộc tình…đầy nước mắt mà có hậu…
Bây giờ, gánh hát cơ hồ như sắp rã, đào kép hát ca tập dượt như những xác không hồn, như món nợ phải trả, nghề đã mất, chỉ còn nghiệp chướng ! Nỗi vui chú Ba hồi mới hoà bình -từ rày mình về miệt vườn lưu diễn dễ dàng -, bị vơi đi bất ngờ khi ông ngoại mất. Ngoại tôi, soạn giả Bảy Út, chuyên môn viết lời ca, đôi khi đặt tuồng, vừa hết chiến tranh, ngoại bị bệnh gì không biết, ngày cứ héo hắt, teo tóp, vài tháng thì chết, lúc đó tôi mới bảy, tám tuổi. Chú Ba Xanh và cậu Năm Trường bao thầu lèo lái mọi việc. Cuộc sống trôi chảy gượng gạo, vì tài chánh thu vào liên tục thất bát, và vì cãi cọ lớn tiếng cũng hơi nhiều. Lúc đầu ai cũng lo sợ vì có "trên" nào đó muốn thanh niên chớ nên nghe hay ca vọng cổ, cải lương, vì thứ cổ nhạc chưa đủ cổ này quá uỷ mị, xa vời hiện thực, không tốt cho việc xây dựng xã hội mới. Nhưng họ cấm chỉ được một thời gian ngắn.
Nhưng cũng chưa phải là được tự do. Như về việc đặt tuồng, tôi nghe chú Ba và cậu Năm than thở hoài. Bởi tuồng nào anh Ba cũng bắt họ sửa lên sửa xuống, nào là chưa vững, chửi ngụy như vậy chưa mạnh mẽ, tố cáo văn hóa đồi trụy không sâu sắc, không được dùng chữ Hán Việt, phải dùng chữ quốc ngữ, vân vân…Chú Ba cằn nhằn hoài với người trong trại, có lúc chú giận dỗi nói với cậu Năm Trường :
- Nó có giỏi thì ngồi đặt nguyên một vở tuồng cho tao coi, đợi người ta làm rồi chê thì dễ biết mấy ! Mà tao đố nó biết dư giả giê i khác với dư dả dê đê như thế nào (!).
Ba tôi cũng có lần đụng độ với anh Ba :
- Chú mày khó quá, ai hơi sức đâu đi đếm mà chú mày chê tao vẽ thiếu…hai cọng râu bác. Tại râu ổng thưa chớ đâu phải tao cố tình vẽ thiếu ?
Hoặc :
- Mắt ai cũng con nhỏ con lớn đâu phải riêng chỉ bác Hồ, tao vẽ vậy là đúng sự thực, chú mày đòi vẽ cho bằng nhau, đâu được.
- Chú mày chê tao vẽ mặt bác đỏ quá, đúng đúng, nhưng thiếu sơn để tao pha thì đành chịu vậy. Ví dụ như tao chỉ có sơn xanh, tao cũng vẽ giống và đẹp như thường… tất cả nghệ thuật là ở đó, chú mày biết không ?
Ba cười nói với má : - Em thấy đó, chửi bới, đập phá, tẩy trừ tàn dư, tiêu huỷ đồi trụy, nuôi dưỡng thù hận : quá dễ ! Sáng tạo, xây dựng, yêu thương …mới thật là …trần ai khổ nhọc !
Cậu Năm nóng nảy : - Kham chưa nổi điều đang có thì chớ nói viễn vông..
May là anh vai vế nhỏ hơn ba má tôi, anh kêu má tôi bằng dì. Má anh với má tôi có chung ông bà ngoại. Hồi anh mới về, xã hội cũ còn "phong kiến, lạc hậu", quan trọng vai vế gia đình còn được đám tàn dư duy trì ; họ tuy yếu thế nhưng vì đông hơn nên đôi lúc anh phải nhượng bước. Chứ không thôi anh đã cho ba tôi đi học tập như dã cho cậu Sáu Mẫn (tức là hề Mẫn của đoàn).
Bữa hát đó cậu Sáu cương ẩu, cậu nói lối trước khi vô xàng xê là "…bà con ơi, bà con đừng có nghe tui nói, bà con hãy nhìn những gì tui làm…" Khán giả cười rần rần và vỗ tay khen cậu quá xá. Anh Ba lấy làm lạ vì thấy câu nói đó vô duyên lạt lẽo, tầm thường. Ðến lúc có người ghét cậu Sáu, cắt nghĩa cho anh biết ai là tác giả thì anh đùng đùng nổi giận ; cậu Sáu ôm gói đi "học" hết sáu tháng.
Còn chị Ba. A, chị Ba "kẹo lạt" của tôi, chị vốn người đất Bắc, hồi chị mới vào ai cũng muốn làm quen với chị, hỏi chuyện "ở ngoải". Chị thật thà hay...phán những câu làm mất lòng người. Như khi đến thăm dì Hai, là chị em bạn dì của má tôi, chị rờ rẫm mấy cây cột nhà đúc bê tông, rồi mạnh mẽ dõng dạc tuyên bố rằng :
- Nhà dì Hai tốt thế này, cột to thế kia chắc chắn là Mỹ Ngụy đưa tiền cho dì xây. Chứ ở ngoài cháu, nhà bộ trưởng còn chả bằng được như thế này.
Dượng Hai giận xanh mặt, dì Hai có máu tếu nên chỉ cười cười, giả giọng Bắc :
- Ừ thế là bởi vì dì của cháu đây vốn là …là bà cố nội của Mỹ nên nó cho tiền dì xây đấy cháu ạ ! Thằng Mỹ thường dối trá xảo quyệt, nhưng vào đến nhà dì thì trúng phải gió nên ngu cực kì !
Trong trại xảy ra chuyện gì chị cũng phê bình và hay nói "ở ngoài Bắc…thế này…", "dưới chế độ xã hội chủ nghĩa…thế kia…". Thí dụ :
Ở trong này…chẳng vệ sinh, cầu tiêu hễ không xây trong nhà thì lại cất ven sông, bọn Mỹ Ngụy chỉ lo hốt tiền, lo chém giết…không biết giáo dục nhân dân. Còn ngoài Bắc ấy à, có cầu tiêu tiểu công cộng có thùng…có nắp, có…người đi lấy mỗi ngày…để làm phân bón, thật tiết kiệm…lại sạch sẽ, gọn gàng !
Dì Hai can các chị tôi :
- Ðừng thèm đôi co với nó, để nó ra đường phê bình kiểu đó và kể chuyện xã hội chủ nghĩa văn minh, chúng vả cho mẻ răng, nó sẽ tởn mặt tới già. Bà con đánh, mất công…mang tiếng.
Một lần trại họp bàn chuyện gì đó có cả anh chị, chị nghiêm trang gọi anh là đồng chí. Cả trại về sau nói chuyện với anh Ba, gọi chị là "đồng chí vợ".
Mọi thân tình hoàn toàn tan rã hai năm sau, cùng lúc với cuộc tình anh chị Ba. Nghĩa là khi anh đeo riết cô Thanh Hồng, một trong mấy cô đào "lẳng" của gánh Ðồng Phước. Trong trại ai cũng… tán thành cuộc nhân duyên mới dù anh hơn Thanh Hồng gần hai chục tuổi. Chỉ có má tôi là thương xót chị Ba "thân gái bơ vơ nơi đất lạ quê người". Bà không đồng ý cái cớ -được "toàn thể nhân dân trong trại nhất trí"- ta về ta tắm ao ta của anh Ba. Thành thử chị còn lân la giao thiệp với mẹ con tôi, chớ trong trại, rồi ngoài xóm ít ai thèm đếm xỉa tới chị. Ðáng lẽ tôi cũng chuyện trò niềm nở hơn nhưng mấy tuần nay tin ba tôi vượt biên đã tới tai chị. Chị bán tín bán nghi mà không dám hỏi thẳng. Anh Ba thì không nói chi. E rằng nhân dân sẽ hết nhất trí. Dầu sao, ba tôi cũng có chút tiếng tăm trong trại lẫn ngoài xóm. Tôi đã tự dặn trong bụng : chị còn vòng vo thăm hỏi tôi sẽ nói huỵch tẹt ra rồi "cắt đứt dây chuông", kể như huề, làm gì được nhau, cho chị…chết luôn.
Ba với anh Hai đi rồi, chị làm gì được mẹ con tôi ? Tịch thu hai cái giường trong trại ? Niêm phong quán Thanh Danh, cái quán chỉ vỏn vẹn một bàn cây thấp và không có được ba chiếc ghế lùn lành lặn như quán cà phê thím Ba ? "Chả bõ dính răng!" như chị vẫn nói.
- Má đâu rồi con?
Tôi giật mình ngẩng lên. Cậu Năm Trường nhìn tôi chăm chăm, hai con mắt thương yêu:
- Sáng giờ bán khá không con gái cưng?
Trời ơi giọng cậu y như ba tôi khiến tôi muốn khóc, tôi bỗng nghe hờn cậu ; bèn sẳng giọng :
- Má con đi chợ từ sáng. Uả ! Con tưởng cậu đã đi theo đoàn…
- Coi kìa, lại sắp khóc phải không? Má con về tới bây giờ nè… Cậu mới mua cho con mấy bản vọng cổ của Thanh Nga, học thuộc rồi ca cho cậu nghe. Kỳ này cậu nghỉ ở nhà dưỡng sức.
Tôi lật lật mấy cuốn bài ca mà giận mình vô cùng. Tôi ghen cho ba tôi. Rồi tôi biết mình vô lý, tôi bực bội, lí nhí cám ơn cậu. A, mấy tuồng cô Thanh Nga ca diễn gần đây.
- …Má con mới đi chợ, chưa về liền đâu, cậu hỏi chi vậy?
- Tối nay đoàn Thanh Minh về hát rạp Cao Ðồng Hưng, tuồng Thái hậu Dương Vân Nga.
Tôi suýt nhảy cà tưng vì sung sướng. Cậu vuốt đầu tôi :
- Chiều nay hai mẹ con sửa soạn ăn cơm cho sớm, cậu có ba vé mời.
Cậu đi rồi tim tôi còn rộn rã, náo nức. Không phải vì ai cũng khen tôi có khuôn mặt và giọng ca giống Thanh Nga mà tôi mê cô đâu. Tôi quen với hình ảnh cô từ hồi mới lọt lòng mẹ. Buổi sáng ngủ dậy, ra khỏi mùng là tôi thấy cô.
Ba tôi mê cô từ hồi cô sang lưu diễn bên Pháp, ba tôi đang học hội họa ở Ba Lê. Khi bỏ ngang về Sàigòn, ba cứ lân la làm quen, sống gần giới cải lương. Gặp má tôi, ông theo riết. Cậu Năm suýt đánh lộn với ba vì khi đó, cậu đã và đang dày công luyện tập và…đeo đuổi má tôi.
Má tôi thường nói má với ba hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, còn với cậu thì vô duyên đối diện bất tương phùng. Cậu trở thành bạn thân với ba tôi nhưng hôm đám cưới ba má cậu nhậu say, đập bể cây đàn guitare, thề "ở vậy". Ba má nói cách mấy cũng không lay chuyển lòng cậu. Mỗi khi cậy say mèm, bà con vực về trại là tôi thoáng thấy má tôi long lanh ngấn nước trong đôi mắt đen láy.
Trên phần vách nhà tôi, ba treo, dán đầy hình cô Thanh Nga. Bộ sưu tập "tem" của ba đó. Thanh Nga trong Người vợ không bao giờ cưới, trong Ðôi mắt người xưa, Loan mắt Nhung, Hai chuyến xe hoa… và đôi bức hình má tôi hồi bà sắp sửa trở thành đào chánh đoàn Ðồng Phước. Thời ba chưa bán cái máy hình thiệt to có cả bao da dầy cứng bóng láng và thơm nức mùi da. Bây giờ hình nào cũng ố vàng, cong góc. Còn ba…
Tôi ngắn nghía mãi những bức ảnh, càng nhìn càng so sánh càng thấy má giống Thanh Nga. Dường như má có bà con xa với gia đình cô, nhưng má ít khi muốn nói đến. Cũng như không khi nào má nhắc nhở đến nguyên nhân đã làm gián đoạn sự nghiệp cầm ca của má.

*

Chiều cơm nước thay đồ xong thì cậu Năm tới. Tôi lửng thửng đi sau lưng má và cậu. Thường khi, hễ vào Gia Ðịnh coi hát, cả nhà thả bộ rề rề vừa đi vừa hóng mát. Ði thành hàng hai, cậu với anh Hai đi trước, rồi tới ba má, tôi và Kha đoạn hậu. Ba má chỉ trỏ những căn nhà san sát, những dinh thự, kể rằng hồi xưa đó chỉ là ruộng rau muống, bãi rác…
Bây giờ cậu Năm đi cách xa xa má tôi, mặt cậu vui vẻ, nên tôi nghe còn hờn cậu. Bởi vậy trong rạp tôi ngồi chen giữa hai người. Rồi say mê nghe, mắt dán lên sân khấu uống từng lời ca, từng cử chỉ của người đàn bà vương giả…
" Hỡi các triều thần, bá quan văn võ. Ðây tấm long bào ta gìn giữ lâu nay. Áo giành cho con trai ta kế vị sau này…"
" Chúng tôi là tiểu quốc, các ngài là đại bang, các ngài phải lấy nghĩa nhân mà đối xử với chúng tôi. Như vậy mới mong không tức nước vỡ bờ…"
" Việc thư hùng không phải nhờ nơi những lời cao ngạo. Dân ta bao lần tỏ ra cũng đủ tài binh lưọc xua tan trăm ngàn bão giông giữ yên một giải non sông…"
" Ôi đất nước của ta trời Nam một cõi vang lừng lịch sử oai hùng sao lại chịu khuất phục ngoại bang. Chúng đã để ý dòm ngó mảnh đất thân yêu này ắt chúng sẽ bày trò mượn cớ xâm lấn sang đây …"

Tôi chợt nhớ đến những câu chuyện thì thầm giữa những chú bác trong gánh hát. Nhất là theo chú Ba, "người ta" đang tìm cách khơi dậy căm thù, kêu gọi lòng đoàn kết, hy sinh. Nhưng không khí trong xóm không như ý "người ta" mong muốn, lúc bọn "bành trướng" Trung Quốc tấn công ở biên giới phía Bắc, nhiều người trong xóm dám lộ vẻ vui mừng, hi vọng…Cậu Năm buồn bã mỉa mai :
- Ðó, coi đó. Hồi xưa tao đi kiếm con nít trường Tàu để đánh lộn, bây giờ thiên hạ vậy đó, "người ta" chửi mình phản động cũng phải !
- Dân chúng ham mê cải lương thì đổ xô nhau đi coi, chứ còn nói về "tác động" của vở tuồng thì…
Khuya về, tôi tíu tít, hăng say nói về những màn đã xem. Ðến nỗi lúc băng qua đường, đường vắng hoe chỉ có một chiếc xe Wolkswagen đang trờ tới nhưng tôi không thấy. Tiếng bánh xe rít lên ngừng sát bên tôi ; cậu Năm ôm ngang lưng tôi kéo vào. Tôi quay lại nhìn người trong xe. Không nhìn thấy rõ mặt người lái, nhưng bên cạnh, là cô Thanh Nga.
Mặt cô thật bình thản tuy có đôi nét mệt mỏi, cô nhìn tôi mỉm cười bao dung, cô đẹp như thiên thần. Ðẹp quá vì cô hiện thực hơn lúc nãy, khi còn là một thái hậu bơ vơ mảnh mai trên sân khấu với một trách nhiệm quá to lớn, nặng nề.
Má tôi hít hà hốt hoảng :
- Trời ơi chút xíu nữa là xe đụng con rồi. Trời thần ơi, cô đẹp còn hơn vua chúa, hoàng hậu…Anh Năm thấy không lúc nầy cô có da có thịt, hai má đầy đặn, đôi mắt đen…minh mông, ô, cái mũi dọc dừa nhỏ xíu, cái càm nhọn nhọn…Chồng cô chở con tới rước đó, con thấy đứa nhỏ ngồi sau không hả Ngân. Cha, khuya lơ mà hãy còn thức theo cha mẹ.
Chúng tôi về trại cùng với vài người đi xem hát khác, đường khuya cũng thức dưới những lời trầm trồ, nhắc nhở tuồng tích, phê bình lời ca, cách diễn. Tiếng bàn bạc phê bình nhỏ dần, trở thành tiếng thì thào rồi im hẳn sau vài lời cằn nhằn ngái ngủ phát ra từ mấy dãy mùng cao thấp trắng, vàng xen lẫn với màu xanh lá cây nhà binh. Có giường thiếu mùng, chỉ tòn ten võng mây hay võng bố. Trại tối mờ, ánh sáng leo lét trên chiếc bàn thờ Tổ thoi thóp như sắp tắt. Lên giường, má tấn mùng cho tôi rồi trở qua giường của bà. Qua lớp vải thưa, tôi thấy cánh tay bà vắt qua trán, dường như có tiếng thở dài…
Tôi choàng tỉnh vì tiếng chân rầm rập, tiếng người la hét. Ðịnh thần, ngồi dậy, tôi ngơ ngác, tim đập thình thịch. Ðêm lành lạnh, sâu thẳm. Ngọn đèn dầu trên bàn thờ tổ vẫn còn cháy. Bên cạnh, giường má trống không.
Vài ngọn đèn néon bật lên. Tiếng la lại vang lên, hối hả nhưng rõ ràng :
- Trời ơi, tụi nó giết cô Thanh Nga rồi !
- Hai vợ chồng chết hết trơn !
- Trời ơi, tui thấy rõ ràng, tui nghe tiếng cô la nữa.
- Quân ác nhơn, thất đức !
- Trời ơi, mấy người đứng đó mà không ai dám làm gì để tụi nó bắn xong lên xe đi mất tiêu !
Mỗi người một câu, người hỏi kẻ đáp, người kêu trời, kẻ than thở. Tất cả lùng bùng bên tai tôi. Trời còn khuya lắm, trong xóm yên lặng chỉ tại trại Ðồng Phước là mọi người đều thức dậy, bàng hoàng, đau đớn. Rõ ràng là trước đây mấy giờ tôi còn thấy cô cất giọng ca ngọt ngào ai oán, tay nâng vạt áo chậm đôi giọt lệ lăn dài trên má phấn.
Má quay vào xác định điều khủng khiếp. Tôi dụi mặt vào vai má khóc ròng, không còn nghe tiếng ồn ào xung quanh. Lưng áo tôi cũng ướt nước mắt nóng hổi. Mà không chỉ mẹ con tôi. Tiếng khóc nghẹn ngào nghe như dậy lên từ bốn phía…Tôi thiếp đi trong tiếng nấc…
Cả ngày hôm sau không khí trong trại và cả ngoài xóm cũng sôi động khác thường. Người ta hỏi han, xầm xì, thương tiếc. Người hỏi, người kể. Buổi sáng toàn trại như đều đã nhìn thấy tận mắt trận ám sát dã man thảm sầu. Ðến chiều thì cả xóm biết rành từng chi tiết. Ðủ thứ giả thuyết được đưa ra. Má tôi thở dài nói nhỏ :
- Trời ơi hồng nhan bạc mệnh….một đời tài sắc có một không hai…Quân sát nhơn thế nào cũng giả tử.

*

Thím Ba Xanh rủ má tôi đi đưa đám người nghệ sĩ tài danh. Thím nghẹn ngào :
- Ðể chị em mình nấu xôi đem ra trụ ngoài bùng binh Sài Gòn, chờ xe đòn đi ngang, mình tháp tùng đưa cô đến chỗ yên nghĩ ngàn thu.
Tôi ở nhà coi quán, má và thím xách giỏ cơm nước, bánh trái, bó bông huệ đi cùng vài bà khác trong trại, ngoài xóm.
Chiều tối, đoàn người trở về bèo nhèo, bơ phờ, tức tối. Bà con vây quanh hỏi chuyện.
- Thiên hạ ngồi nghẹt bùng binh Sài Gòn.
- Thiệt tình đâu phải chỉ đám mình mới tính chuyện đưa tiễn cô.
- Thì đồng bào ai cũng thương yêu, ái mộ tài sắc cô, muốn chào cô lần cuối…Vậy mà….
- Quân khốn nạn, tàn ác…giết cô rồi mà không muốn nhân dân đưa đám cô..
- Chu cha, nói nhỏ thôi bà nội, biết aì giết mà bà cả quyết như vậy ?
- Trời ơi, còn ai vô đây nữa…Thời này ai có súng, có lựu đạn nói tui nghe coi ?
- Coi chừng đi mút chỉ đó nghen…
- Oái, thiệt là chán, chị em ngồi chờ, nắng cháy da đầu. Mà nó để hai cái hòm trong xe nhà binh, chạy qua một cái vù. Bà con ngơ ngác…
- Bây giờ biết cổ yên nghĩ chỗ nào ? Thiệt tình, chết thảm vậy mà chưa yên thân !
- Thì tại người ta sợ mấy bà thừa cơ nổi loạn, người ta đành đem đi êm.
- Ối, sao ông không dám nói thẳng là họ sợ " phục quốc quân " thừa cơ tấn công…
- Không biết "phục" phản gì mà cả chục ngàn người tụ họp không xin phép…thiệt coi nhà nước không có kí lô nào hết…
Người ngoài xóm cũng tụ tập xầm xì xiên xỏ đến nỗi công an khu vực phải đi rảo hoài để giải tán. Mọi sôi nổi tạm lắng khi báo chí đăng tin bọn chủ mưu vụ thảm sát là "bọn xấu theo Trung Quốc". Trời đất, chỉ vì cô thủ vai Thái Hậu, chọn mặt người gởi trọng trách bảo vệ tổ quốc ?
Ðó chỉ là sự phẳng lặng đành lòng của con sông cạn nước mùa khô. Tôi thấy chú Ba cự nự hung với anh Ba. Nhiều lần. Tôi nghe được thím Ba nhỏ giọng cằn nhằn chồng :
- Bộ thằng Ba nó giết hay sao mà ông cứ nhè nó mà ông nhiếc móc ?
Chú sa sầm nét mặt, nghiến răng, không trả lời. Thím liều lĩnh :
- Tui nghe nói người ta thanh toán gia đình cô vì chuyện vượt biên, tiền bạc không thành…
Chú trợn mắt, lớn tiếng nạt một tràng khiến vợ lùi mấy bước :
- Bà nói gì ? Bà điên chưa ? Nghe tụi nó vu khống như vậy mà lọt lỗ tai ? Hả? Vợ chồng cổ đang lo giấy tờ xin đi Pháp. Bao nhiêu đó là đủ hiểu nguyên do rồi…Thiệt ác độc vô cùng, bà ra ngoài lóng tai nghe, mấy gánh hát xếp ve, đào kép đều co vòi. Bây giờ nó kêu vô đoàn nào là riu ríu nghe theo… Còn đứa nào dám tính chuyện ra đi nữa. Cô Thanh Nga mà chúng còn giết, mấy cái mạng cùi khác nghĩa lí gì ? Ðộc lắm, bắn có một mũi tên mà rụng tới cả chục con chim.
Lúc không có anh Ba và tai mắt anh, chú với cậu Năm và vài người vẫn bàn tán, tức tối. Rốt cuộc rồi cũng tới tai anh. Anh hay thuyết:
- Không tìm ra thủ phạm nên mấy người cứ bàn ra tán vô, vu oan…Dân miền Nam này còn…cá nhân chủ nghĩa quá.
Anh bực mình nói vậy một phần cũng vì ngày trước hai bên thắng thua chưa…cảm thông nhau. Những đoàn cải lương từ Bắc vào và Nam ra cùng thề trong lòng sẽ chẳng bao giờ trở lại. Trong Nam ra Bắc, chưa ai có kinh nghiệm để đối phó với những "sự cố" như thiếu điện nước, đèn đuốc, sân khấu thô sơ và nhất là cái rét cắt da. Nên dù dược đồng bào ùn ùn ủng hộ, hễ nghe nói ra Bắc là gánh nào cũng tìm cách…thoái thác. Ngược lại, đoàn văn công Bắc vào biển diễn ở Sàigòn, thiên hạ bảo nhau tẩy chay. Một lần chú Ba rủ cậu Năm với ba tôi thả bộ về rạp Cao Ðồng Hưng đếm…khán giả nhân dịp đoàn cải lương Tiếng Chuông Vàng Thủ Ðô vào trình diễn. Ba tôi về nhà kể, giọng hể hả :
- Tao đếm được đúng bốn chiếc xe đạp dựng trước rạp. Nhân dân mắc làm gì mà chỉ có bốn người đi coi hát !
Cậu Năm nói :
- Ai nói anh là bốn khán giả ?
- Không chừng hơn bởi vì một người đèo một người …tối đa là tám mạng !
- Ông ơi, tám mạng đó là…đây nè, vợ chồng…đào kép chánh, vợ chồng đào kép phụ, thằng chính trị viên chỉ đạo, thằng bán vé, thằng gác cửa…. Vị chi là bảy, khán giả chỉ có một người…Ông nội nào đó trong uỷ ban nhân dân…được giấy mời ! Tóm lại cuộc trình diễn hoàn toàn…thất bại !
Sự thất bại đó về sau nầy đã bị xóa bỏ bằng cách người ta "xung công" đào kép. Những người nổi tiếng bị "lùa" vào những đoàn hát nhà nước. Thế là các rạp lại đông đầy. Hễ rảnh rỗi, chú Ba và ba tôi rủ nhau đi coi hát và thăm bạn bè, dù mỗi lần về ba đều có chuyện để cằn nhằn :
- Nhà nước khôn tổ sư, không làm gì hết mà cũng đòi chia lời. Còn lỗ không biết nhà nước có bù vô không ?
Má tôi tươi cười :
- Nào phải chỉ có những gánh hát mà anh phân bì, hàng quán, cửa tiệm gì hễ ra tiền đều phải chia, vậy là tuyệt đối công bằng.
- Em nói vậy mà nghe được à ? Công bằng ? Mấy thằng ôn dịch ngồi ghế chủ toạ, không làm gì mà được toàn quyền kiểm soát, phán xét và …ăn chận.
Cậu Năm đổ dầu vô lửa :
- Cô có nhớ bữa thằng chủ Công ty Giao thông Vận tải đường bộ lên ti - vi báo cáo thành tích của công ty ? Nó "hồ hỡi" khoe rằng công ty "ta" từ vốn số không, chỉ sau hơn một năm, làm chủ mấy trăm xe vận tải, tiền lời thu được là một triệu mấy trăm mấy chục, lẻ mấy …xu. Số liệu, sổ sách chi li, ra cái điều ngay thẳng, rõ ràng ! Từ vốn số không ? Thì ngoài đó mới vô, vốn đâu mà vốn ? Đúng là tay không làm nên…vận tải ! Nên mới cần dân hùn hạp. Kêu gọi, đe doạ, ép buộc, đủ phương cách, gọi là hùn mà dân hùn vốn, nhà nước hùn…lời (nói). Lãi lộc chia đôi lúc ban đầu, dần dần hất cẳng người ta : vai trò lịch sử của bạn đến đây là chấm dứt, nhà nước ghi công bạn, mời bạn đi chỗ khác chơi, gia tài sự nghiệp bạn từ nay có nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, đảng lãnh đạo. Tự nhiên thành ra có cả vốn lẫn lời mà cha con nó không tốn sức lao động.

*
Không hiểu vì anh Ba Kiểu không đủ sức ngăn chận những tin "đồn nhảm" hay vì anh là chính phạm trong chuyện tình "đồi trụy" mà trăm rắc rối bắt đầu đổ lên đầu anh.
Một "phái đoàn" gồm ba người đến gặp dì Hai để nói chuyện về anh Ba. Người ta nhờ dì hãy khuyên nhủ anh trở về với gia đình và bổn phận, trở lại với vai trò đảng viên gương mẫu. Bằng không, anh sẽ bị khai trừ khỏi đảng.
Có lẽ vì trước đó một anh đảng viên quen biết chút đỉnh gia đình dì, hỏi mượn chiếc xe đạp đi công chuyện rồi đi luôn không trở lại, cộng thêm với vẻ hiền lành nhỏ nhẹ mà không kém nhiệt tình của những nhà luân lý, dì cả gan trả lời rằng :
- Nó vai vế cháu tui nhưng mà đầu nó bằng đá xanh, óc nó có sạn. Nó chọn ai làm bạn, kệ nó, mắc m
Bình Luận về Đường Luật Bát Cú Ngũ Độ Thanh
Tác giả: Vương Thanh
Mấy năm gần đây, nghe trên mạng có một kiểu thơ đường luật mới được gọi là đường luật ngũ độ thanh. Hôm nay, mình xin giải thích quy luật của đường luật ngũ độ thanh là gì và cho vài lời bình luận về kiểu thơ này.

Những quy luật sẵn có của thơ đường luật sau đây vẫn đuợc tuân thủ .
1. Luật bằng, trắc trong mỗi câu thơ "BTB", hay là "TBT" cho chữ thứ 2, thứ 4 và thứ 6 trong mỗi câu vẫn được áp dụng. Chữ có thanh (vần) trắc là chữ có dấu (sắc, nặng, hỏi, ngã .) Chữ có thanh bằng (vần bằng) là chữ có dấu huyền hay là không có dấu. Mấy dấu mũ, dấu á không tính. Người làm thơ đường luật quen rồi thì cái luật này không còn nhớ tới nữa vì câu thơ làm đúng luật bằng trắc nghe sẽ êm tai hơn là câu thơ không đúng luật. Như thơ lục bát cũng có âm luật bằng trắc : cũng thường là "BTB" trong câu lục - như trong câu "gió mưa (2B) là bệnh (4T) của trời (6B).

2. Niêm của bát cú . "BTTB BTTB" hay là "TBBT TBBT" của bài bát cú vẫn đuợc tuân thủ. Mỗi mẫu tự B/T là cho chữ thứ 2 trong mỗi câu từ câu 1 tới câu 8.

Còn sau đây là những quy luật của bát cú kiểu ngũ độ thanh:

NDT1 : Cho những chữ thanh "trắc" trong mỗi một câu, không được dùng lại cùng dấu . Thí dụ như đã dùng chữ có dấu sắc trong câu rồi, phải dùng chữ có dấu khác, như dấu (hỏi, ngã, nặng) .

NDT2: Không có 2 từ vần bằng được đứng sát nhau mà cùng dấu. (Hai chữ có dâu huyền không đuợc đứng cạnh nhau, và hai chữ không có dấu không được đứng cạnh nhau ).

Hai quy luật trên đuợc chế ra với giả thuyết là sẽ làm cho bài bát cú nghe êm dịu hơn, có nhiều nhạc tính hơn. Theo mình thấy thì: dấu hỏi và dấu nặng đọc cũng rất giống nhau, có thể thay thế lẫn nhau, cũng chắng ảnh hưởng gì đến âm điệu du duơng của câu thơ.

Nhưng kiểu thơ ngũ độ thanh có hai vấn đề lớn:
1. Rất nhiều cụm từ và chữ kép trong tiếng Việt bị loại bỏ . Thí dụ : suối tóc, lung linh, yêu thương, bâng khuâng, miên man, hòa bình, lác đác, thương em , tháng sáu, hạnh ngộ, trao tay, cao nguyên, v.v.
2. Khi làm một câu thơ, ý tưởng bị gò bó, từ ngữ bị giới hạn rất nhiều.

Những vần thơ kiệt tác của tiền nhân như bài "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan, như "Mười Hai Tháng Sáu" của Vũ Hoàng Chương, "Tình Tự Dưới Hoa" của Đinh Hùng không bài nào đúng quy luật lcủa ngũ độ thanh.

Như đoạn thơ sau đây trong bài "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan:
(1) Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
(2) Cỏ cây chen đá, lá xen hoa
(3) Lom khom dưới núi, tiều vài chú
(4) Lác đác bên sông, chợ mấy nhà

Không có câu nào là theo luật ngũ độ thanh và câu nào nghe cũng du dương, êm tai, mượt mà. Nếu theo ngũ độ thanh, thì làm sao có thể diễn tả cái cảnh : cỏ cây chen đá, lá xen hoa. Làm sao mà có câu đối "Lom khom dưới núi ... Lác đác bên sông ..." tuyệt diệu như thế . "Lom khom" không đúng luật NDT2, "dưới núi" không đúng luật NDT1. Câu 4: "lác đác bên sông" cũng không đúng luật NDT1, và NDT2. Tác giả cảm khái mà làm ra câu đối tuyệt vời, chả lẽ lại vì câi kiểu thơ NDT mà vừt bỏ đi câu đối, làm câu khác sao.

Bây giờ, minh lại lấy môt đoạn bài thơ "Mười Hai Tháng Sáu" của Vũ Hoàng Chương ra làm ví dụ:
(1) Trăng của nhà ai, trăng một phương
(2) Nơi đây, rượu đắng mưa đêm trường
(3) Ờ, đêm tháng sáu, mười hai nhỉ
(4) Tố của Hoàng ơi, hỡi nhớ thương.

Tuy đây không phải bát cú, nhưng bài này cũng là đọan tứ tuyệt. Và luật NDT1, NDT2 mục đích cũng là làm cho mỗi câu thơ 7 chữ (giả thuyết) nghe du dương hơn. Nếu theo NTD, thì không thể dùng cụm từ "mưa đêm" rồi . Mà tác giả lại muốn nói đến cảnh uống rượu trong mưa đêm, vậy phải làm thế nào . Còn câu thứ sáu, cụm từ "tháng sáu" cũng không đúng NDT, chả lẽ lại đổi là "tháng bảy" cho đúng.

Còn như trong bài "Tình Tự Dưới Hoa", những câu thơ tuyệt vời của Đinh Hùng (1) Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay
(2) Ôi, mộng nào hơn giấc mộng này
(3) Mùi phấn em thơm mùa hạ cũ
(4) Nửa như hoài vọng, nửa như say

Câu 1: "hạnh ngộ" và "trao tay" thành không đúng luật của NDT.
Câu 2: láy lại chữ "mộng" rất hay, nhưng không đúng NDT.
Câu 3: "mùi phấn em thơm ..." hình ảnh đep vập nhưng không đúng NDT.
Câu 4: láy 2 chữ "nửa" có cùng dấu hỏi trong một câu và cụm từ "như say" không đúng NDT.

Từ những đoạn thơ mà minh nêu lên ở trên và phân tích, chúng ta có thể thấy kiểu thơ NDT :
1. gò bó tư tưởng người làm thơ, rât nhiều cụm từ hay, không dùng đuợc vì không đúng luật NDT.
2. Rất nhiều từ kép tiếng việt , hay cụm từ tiếng Việt không dùng đuợc
3. Một số ý tưởng hay hình ảnh không diễn tả đuợc như "mưa đêm", "tháng sáu", cao nguyên, "lác đác lá rơi vàng nẻo trúc", ...
4. Những câu thơ cố tình láy lại chữ , dùng theo kiểu điệp khúc, rất hay, thi sẽ không đuợc dùng vì không đúng luật NDT.

Theo mình nghĩ, một bài đường luật bát cú đã có đầy đủ nhạc tính , với âm điệu bằng trắc du dương. Nếu muốn cho câu vần nghe mượt mà, du duơng hơn, thì chỉ cần đọc nhẩm lên bằng tai rồi sửa lại những chữ ở vị trí nhất tam ngũ bât luận, chữ thứ 1,3,5 đổi thành bằng hay là trắc , hay là tthanh trắc khác cho êm tai hơn. Đọc qua những bài thơ ngũ độ thanh, mình thây cũng không êm dịu bằng phương pháp đọc nhẩm lên mà bao nhiêu nhà thơ vẫn dùng từ trứoc tới giờ.

Đôi khi, mượn thể thơ bát cú để diễn đạt tình cảm, ý tưởng, hình ảnh, ... trong một khuôn khổ có sẵn nhiều nhạc tính . Làm quen với bát cú một thời gian rồi thì chẳng còn thấy luật thơ bằng trắc nữa, cũng giống như làm lục bát. Chỉ còn mây điểm đặc biêt là mấy câu đối, mà làm mây câu đối cũng là hứng thú của người làm thơ bát cú .

Nhưng với kiêu thơ ngũ độ thanh, thì bát cú trở thành một trò chơi chữ rắc rối mà người làm thơ phải đi tim vần điệu, và gò ép ý tưởng để câu thơ vào đúng khuôn khổ của hộp thơ NDT với những luật lệ lập dị, gò bó. Mỗi khi làm một câu thơ thì phải coi lại tất cả mọi dấu thanh trắc, thanh bắng coi có đúng luật NDT không. Đó là chưa nói đén sự gò bó, giới hạn ý tưởng và ý cảnh . Thiệt là mât đi ý nghĩa của sự làm thơ . Thể thơ nên giúp nguời làm thơ , chứ không nên gò bó ý tưởng, hạn hẹp ý cảnh , ngôn từ ! Mình thấy thể thơ này rất là vô vị, là "vẽ rắn thêm chân", chẳng có bổ ích gì cho người làm thơ, chắng làm cho thể thơ bát cú được hay hơn, mà dễ làm cho câu thơ nghe gượng gao . Đây là quan điểm riêng cùa mình , mong được chia sẻ với các bạn đọc và những ai đang tư lự về kiểu thơ ngũ độ thanh là kiểu thơ như thế nào, có đáng tập làm hay không.

vương-thanh
19.07.2017
Thơ và người Việt
Tác giả: Vương Thanh
Thơ là hơi thở cúa tiếng Việt. Trước khi có chữ viết quốc ngữ, người Việt dùng ca dao trong chốn dân gian để truyền lại cho đời sau những kiến thức và trải nghiệm trong đới sống, ... Một phần lớn văn hóa Việt được truyền miệng qua nhiều thế hệ với thể thơ lục bát . Lục bát là thể thơ của dân tộc Việt có lịch sử rất lâu đời. Không thấy sách nào ghi rõ năm bao nhiêu, nhưng chắc là đã hơn ngàn năm.

Có câu nói "Truyện Kiều còn, thì tiếng Việt còn." Truyện Kiều là truyện thơ lục bát dài 3254 câu của thi hào Nguyễn Du, viết từ thế kỷ 18 bắng chữ Nôm, đuợc thế giới biết đến và đã đuợc nhiều người dịch qua tiếng Anh, Pháp. Chữ Nôm tương tự như chữ Tàu, nhưng được sửa đổi, thêm vào một số dấu để có thể ghi lại tiếng quốc ngữ . Cụm từ "minh nguyệt" thì là phiên âm của tiếng Tàu, cho nên có thể dùng chữ Tàu để ghi lại, nhưng cụm từ "trăng sáng" thì chỉ có thể dùng chữ Nôm để ghi lại . Cho đến khi có mẫu tự Latin đuợc truyền đến Việt nam từ Pháp .

Người Việt có lẽ là dân tộc yêu thơ nhất . Trong thơ văn tiếng Việt, chúng ta thấy có danh xưng "nàng Thơ", là hồn thơ và thi hứng đuợc tiên cách hóa thành một biểu tuợng thiệt đẹp. Sách vở, thơ văn Tàu không thấy dùng cụm từ nàng Thơ, thơ văn Anh , Pháp cũng không thấy dùng. Những câu nói "nên thơ", "đẹp như thơ" nghe rât tự nhiên trong khi nói chuyên, nhưng không thấy nước khác dùng những từ khen ngợi "đẹp như thơ" bao giờ.

Truyện Kiều được thưởng thức từ chốn đồng quê cho đến chốn thành thị . Có nhìều nguời Việt thuộc lòng hết truyện Kiều cả mấy ngàn câu. Vì thể thơ lục bát rât độc đáo, rất dễ nhớ. Vì người Việt rât yêu thơ . Vì truyện Kiều của Nguyễn Du là thiên cổ kiệt tác.

Chỗ nào có báo chí người Việt trên mạng, là thường hay có những forums thơ để những nguời làm thơ góp thơ và xướng họa thơ với nhau . Rất nhiều những cuộc thi đàm, nói chuyên bằng thơ lục bát, tứ tuyệt đã xảy ra trên nhiều forums tiếng Việt. Đi xem trên mạng cũng không thấy nước nào khác ngòai nước Việt chơi thơ theo lối xướng họa liền tay .

Ngâm thơ của Việt Nam cũng rất là độc đáo, làm sống động con chữ trên trang giấy, truyền đạt ý nghĩa và tình cảm của tác giả qua bài thơ . Người Âu, Mỹ không có nghệ thuật ngâm thơ như nước Việt, người Tàu dường như cũng không có kiểu "ngâm" thơ như nguời Việt đã phát huy thành một nghệ thuật có thể mưu sinh .

Với những điều liệt kê trên, mình nghĩ nguời Việt hẳn là dân tộc yêu thơ nhất. Nếu đi ngoài đường, trong muời nguời Việt gặp, hẳn là cũng có hơn phân nửa đã từng thuộc mấy câu thơ, làm qua vài câu thơ ... Mỗi một người Việt Nam đều có một tâm hồn thi sĩ .

Xin dừng bút nơi đây. Hôm nay bàn truyện về thơ, về nàng thơ, khi nào có dịp minh sẽ viêt về nhạc, và nàng nhạc.

vương thanh
15.07.2017
Tiểu luận về tên gọi luôn bị thay đổi của đệ tam anh thư nước Việt
Tác giả: Vương Thanh
Nước Việt có khá nhiều những bậc anh thư, nhưng nổi bật và được hậu thế kinh trọng nhất vẫn là Hai Bà Trưng và Bà Triệu . Hai Bà Trưng là hai chị em ruột, cô chị là Trưng Trắc, cô em là Trưng Nhị, tên họ rât rõ ràng. Nhưng bà Triệu thì tên gọi cũng hay bị thay đổi và có nhiều danh xưng, "Triệu Ẩu", Triệu Thi Trinh", "Triệu Trinh Nương".

1. Danh xưng "Triệu Ẩu" có lẽ là do người Tàu, quân Tàu đặt cho Bà Triệu. Chữ "Ẩu" bao hàm ý nghĩa không đẹp. Trong truyện kiếm hiệp những bà lão già nua , vú em già cũng hay tự xưng là "lão ẩu" . Những cô nương xinh đẹp tuyệt đói không bao giờ tư xưng là "ẩu" bao giờ . Xem trên mạng web, danh xưng Triệu Ẩu có nơi dich ra nghĩa là "mụ Triệu" . Bà Triệu khi khởi nghĩa tự xưng là "Nhụy Kiều Tướng Quân", và cũng đuợc quân thù sợ hãi tôn xưng là "Lệ Hải Bà Vương" , bà vua biển Nam Hải xinh đẹp của nước Nam. Nhưng khi quân Tàu căm ghét thì sẽ gọi Bà là Triệu Ẩu.

2. Triệu Thị Trinh Danh xưng này sử gia Trần Trọng Kim dùng trong cuốn "Việt Nam Sử Lược", để thay thế cho danh xưng "Triệu Ẩu".

3. Triệu Trinh Nương : một danh xưng khác hậu thế đặt cho Bà Triệu, vì bà chưa lấy chồng.

Bà Triệu là bậc anh thư. Theo ý người viết, chỉ nên tôn gọi là Bà Triệu là danh xưng đẹp nhất, kính trọng nhất.

vương-thanh
14.07.2017